Bản án 60/2019/HS-ST ngày 18/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 60/2019/HS-ST NGÀY 18/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 4 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân TP. V, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 51/2019/TLST-HS ngày  19  tháng  3  năm  2019,  theo  Quyết  định  đưa  vụ  án  ra  xét  xử  số 70/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 4 năm 2019, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Trường H, sinh năm: 1988 tại tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; HKTT: đường B, phường 5, TP. V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Nghề nghiệp: thợ cơ khí; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: không rõ, mẹ: Nguyễn Thị T; Vợ: Lê Thị Thanh L và có 02 con, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: không. Bị bắt ngày 30/11/2018. (có mặt)

2. Phạm Nhựt H1. Sinh năm 1996, tại tỉnh Đồng Tháp; HKTT: ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Tháp; Chỗ ở: phòng trọ đường T, phường L, TP. B, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Nghề nghiệp: buôn bán; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Phạm Văn Đ, mẹ: Huỳnh Thị Ngọc Tr; Vợ: Trần Mỹ D, con: không có; Tiền án, tiền sự: không. Bị bắt ngày 30/11/2018 (có mặt).

3. Võ Hoàng L, sinh năm 1993 tại tỉnh Đồng Tháp; HKTT: ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Tháp; Chỗ ở: phòng trọ đường H, P8, TP. V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Nghề nghiệp: thợ cơ khí; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Hòa Hảo; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Võ Văn M (đã chết), mẹ: Huỳnh Thị B; Vợ, con: không có; Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Bản án số 38/2014/HSST ngày 05/3/2014, Tòa án nhân dân Tp. V xử phạt 02 năm 6 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 09/7/2015. Bị bắt ngày 30/11/2018 (có mặt).

4. Phạm Văn L1, sinh năm: 1986 tại tỉnh Đồng Tháp; HKTT: ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Tháp; Chỗ ở: phường K, TP. B, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Nghề nghiệp: buôn bán; Trình độ văn hóa: không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Phạm Văn K, mẹ: Phạm Thị B; Vợ, con: không có; Tiền án, tiền sự: không. Bị bắt ngày 30/11/2018 (có mặt).

5. Phạm Ngọc H, sinh năm: 1986 tại tỉnh Đồng Tháp; HKTT: ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Tháp; Chỗ ở: Phường K, TP. B, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Nghề nghiệp: buôn bán; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Phạm Văn H, mẹ: Đỗ Thị C; Vợ: Nguyễn Thị Tím E, có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: không. Bị bắt ngày 30/11/2018 (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Trường H, Phạm Văn L1, Phạm Ngọc H, Võ Hoàng L và Phạm Nhựt H1 quen biết nhau và đều là đối tượng hay sử dụng trái phép chất ma túy chung với nhau. Khoảng 11 giờ 30 ngày 30/11/2018, khi cả nhóm đang ngồi chơi tại nhà của H số X đường N, phường T, TP. V thì H1 rủ các bị cáo còn lại góp tiền mua ma túy để sử dụng chung, theo đó H1 đứng ra thu tiền và góp 100.000đ, H góp 100.000đ, L1 góp 30.000đ, L góp 26.000đ được 256.000đ. Do H là người biết chỗ mua ma túy nên H1 đưa cho H 256.000đ và H góp 44.000đ thành 300.000đ rồi điều khiển xe mô tô biển số 72K4-60XX của L đi đến khu vực xóm L, phường T, Tp. V gặp một người phụ nữ không rõ lai lịch để mua 02 gói ma túy với giá 300.000đ. Đến khoảng 12 giờ 45 cùng ngày sau khi cả nhóm đã sử dụng xong 1 gói ma túy, còn 1 gói chưa sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ: 01 gói nylon hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 bộ đồ sử dụng ma túy; 04 điện thoại di động (trong đó, 01 hiệu Nokia màu đen-xanh, 01 hiệu Nokia màu đỏ, 01 hiệu OPPO, 01 hiệu Samsung) và 01 xe mô tô hiệu Attila biển số 72K4-6060.

Tại Bản kết luận giám định số 339/GĐMT-PC09(Đ4) ngày 07 tháng 12 năm 2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu kết luận:

Mẫu chất kết tinh không màu - trong suốt chứa trong 01 (một) gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Công an phường T - CA TP. V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và 02 dấu vân tay màu đỏ ghi “trỏ trái, trỏ phải - Phạm Văn L1”, cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Phan Hữu Q, Nguyễn Văn B, Huỳnh Hữu Trung T, Nguyễn Trường H, Phạm Nhật H1, Phạm Ngọc H, Võ Hoàng L, gửi đến giám định có khối lượng 0,2085 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine.

Đối với người phụ nữ ở khu vực xóm L, phường T, TP. V đã bán ma túycho H, do không rõ lai lịch, cơ quan điều tra tiếp tục xác minh xử lý sau.

Đối với chiếc xe mô tô biển số 72 K4-60XX, Võ Hoàng L khai được mộtngười chị tên Th, quen biết ngoài xã hội, ở khu vực đường n, TP. V cho L để đi làm. Qua điều tra xác định, xe do chị Võ Thị Hồng V, sinh năm 1982, HKTT:đường N, P7, TP. V đứng tên chủ sở hữu, hiện không xác định được nơi cư trú nên Cơ quan CSĐT Công an TP. V tiến hành thủ tục truy tìm chủ sở hữu nhưng không có kết quả và chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự TP. V quản lý.

Bản cáo trạng số 62/CT-VKSTPVT ngày 18/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân TP. V truy tố bị cáo Nguyễn Trường H, Phạm Văn L1, Phạm Ngọc H, Võ Hoàng L và Phạm Nhựt H1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Nguyễn Trường H, Phạm Văn L1, Phạm Ngọc H, Võ Hoàng L và Phạm Nhựt H1 phạm tội “Tàng tữ trái phép chất ma túy”, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo H, H1, L, L1, H từ 12 đến 15 tháng tù; Về vật chứng: căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị tịch thu tiêu hủy chất ma túy và 01 dụng cụ sử dụng ma túy thu giữ trong vụ án; tịch thu nộp ngân sách 01 xe mô tô biển số 72K4-60XX; giao trả cho các bị cáo 04 điện thoại điện thoại di động.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP. V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản phạm tội quả tang, Kết luận giám định, lời khai của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở xác định: Khoảng 12 giờ 45 phút ngày 30/11/2018, tại nhà của Nguyễn Trường H số X đường N, phường T, TP. V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Nguyễn Trường H, Phạm Văn L1, Phạm Ngọc H, Võ Hoàng L và Phạm Nhựt H1 bị bắt quả tang đang tàng trữ 0,2085 gam Methamphetamine. Nguồn gốc ma túy trên, các bị cáo khai góp tiền mua để sử dụng chung. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận hành vi của các bị cáo H, L1, H1, H và L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Xét thấy, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến các qui định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy mà việc sử dụng ma túy còn có thể làm giảm sức khỏe của bản thân người sử dụng, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật khác. Do vậy cần phải xử phạt nghiêm để giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

 [4] Các bị cáo H là người đi ma túy đồng thời sử dụng nơi ở của mình làm địa điểm để sử dụng, bị cáo H1 là người rủ rê và thu tiền để mua ma túy nên các bị cáo phải chịu mức hình phạt cao nhất; bị cáo L có nhân thân xấu, năm 2014 bị xử 2 năm 6 tháng tù về tội trộm cắp tài sản không rút kinh nghiệm cho bản thân nên bị cáo phải chịu hình phạt cao hơn các bị cáo còn lại.

 [5] Xét quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

 [6] Ý kiến của Đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh và điều luật áp dụng phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

 [7] Xử lý vật chứng:

- Chất ma túy thu giữ trong vụ án là chất cấm lưu hành và 01 dụng cụ sử dụng ma túy không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe mô tô biển số 72K4-60XX thu giữ của bị cáo L không xác định được chủ sở hữu, các bị cáo sử dụng vào việc đi mua ma túy và bị cáo L không có yêu cầu gì nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- 01 điện thoại hiệu Nokia màu xanh đen của bc L, 01 điện thoại hiệu Nokia màu đỏ đen của bc L1, 01 điện thoại Samsung của bị cáo H1 và 01 điện thoại hiệu Oppo của bị cáo H không liên quan đến tội phạm nên giao trả cho các bị cáo.

 [8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Trường H, Phạm Nhựt H1, Võ Hoàng L, Phạm Văn L1 và Phạm Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt: Nguyễn Trường H và Phạm Nhựt H1 mỗi bị cáo 16 (Mười sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 30/11/2018.

- Xử phạt: Võ Hoàng L 14 (Mười bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 30/11/2018.

- Xử phạt: Phạm Ngọc H, Phạm Văn L1, mỗi bị cáo 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 30/11/2018.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 gói chất ma túy được niêm phong số 339/GĐMT- PC09(Đ4) ngày 07/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 xe mô tô biển số 72K4-6060.

- Giao trả cho bị cáo L 01 điện thoại Nokia màu xanh đen, trả cho bị cáo L1 01 điện thoại Nokia màu đỏ đen, trả cho bị cáo H 01 điện thoại Oppo và trả cho bị cáo H1 01 điện thoại Samsung.

 (Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự TP. V đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng số 105/BB.THA ngày 05/4/2019).

3. Án phí: Các bị cáo Nguyễn Trường H, Phạm Văn L1, Phạm Ngọc H, Võ Hoàng L và Phạm Nhựt H1, mỗi người phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2019/HS-ST ngày 18/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:60/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về