Bản án 60/2019/HSST ngày 16/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 60/2019/HSST NGÀY 16/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 9 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 60/ 2019/TLST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2019/HSST-QĐ ngày 04 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo.

Họ và tên: Lò Văn L, sinh năm 1969, tại xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Nơi ĐKNKTT: Bản X, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 4/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông Lò Văn Dương, sinh năm 1930 và con bà Lò Thị Nhẹt, sinh năm 1928, vợ là Lò Thị Khổ, sinh năm 1971, bị cáo có 04 con, con lớn nhất sinh năm 1992, con nhỏ nhất sinh năm 2006. Tiền án,tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam, tạm giữ từ ngày 25 tháng 4 năm 2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Cầm Kim Loan – Trợ giúp viên pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ, ngày 24/4/2019 Lò Văn L đi bộ từ nhà ở bản X, xã Y, huyện Mường La đến bản X, xã Y huyện Mường La với mục đích tìm mua Heroine về sử dụng. Khi đến bản Chang, xã Mường Chùm L gặp một người đàn ông dân tộc Mông (L không biết tên tuổi, địa chỉ) đang đi bộ, L hỏi và mua của người đàn ông này một gói Heroine với giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng). Mua xong L đem ra sử dụng một ít, rồi gói lại cất giấu vào trong túi áo ngực bên phải đang mặc trên người rồi đi về nhà. Đến 0 giờ 20 phút ngày 25/4/2019 L bị Công an huyện Mường La phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nilon màu hồng bên trong chứa cục, bột màu trắng.

Ngày 25/4/2019 tại phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường La và Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La, Giám định viên phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh tỉnh và có mặt của Lò Văn L, đã tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng gồm 01 gói nilon màu hồng bên trong chứa cục, bột màu trắng do Lò Văn L giao nộp có khối lượng 0,42 gam, lấy 0,10 gam làm mẫu giám định ký hiệu L.

Ngày 25/4/2019, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường La ra QĐ trưng cầu giám định chất ma túy số: 59/QĐTCGĐ đối với mẫu ký hiệu L. có phải là ma túy không, là loại ma túy gì, có trọng lượng là bao nhiêu.

Ngày 28/4/2019 phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã ban hành kết luận giám định số : 817 kết luận : Mẫu gửi giám định ký hiệu L, là chất ma túy, loại chất Heroine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam. Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ được là 0,42 gam, loại chất Heroine.

Tại bản Cáo trạng số: 535/CT-VKSML ngày 02/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Lò Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát, giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Lò Văn L đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lò Văn L từ 20 đến 26 tháng tù giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì viền xanh đỏ được niêm phong dán kín. Mặt trước phong bì ghi: Tang vật thu giữ của Lò Văn L – Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 25/4/2019 tại bản X, xã Y, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Mặt sau phong bì có 04 dòng chữ ký, 04 dòng họ tên của các thành phần tham gia niêm phong tại mép giáp lai phong bì.

Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo:

Người bào chữa cho rằng: Bị cáo Lò L là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng sâu vùng xa, nhận thức pháp luật kém và sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo. Đề nghị Hội đồng xem xét tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo tại điểm s khoản 1 Điều 51, áp dụng mức hình phạt nhẹ nhất đối với bị cáo, để bị cáo yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình và xã hội.

Bị cáo, người báo chữa cho bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị ội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] .Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] .Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn L khai nhận vào khoảng 00 giờ 20 phút, ngày 25/4/2019 bị cáo đang tàng trữ, cất giữ trong người một gói heroine có trọng lượng là 0,42 gam, với mục đích để sử dụng cho bản thân, thì bị phát bị bắt quả tang.

Xét lời khai, nhận tội của bị cáo, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lò Văn L đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,42 gam heroine được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS, có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Cáo trạng của Viện kiểm sát huyện Mường La, tỉnh Sơn La truy tố đối với bị cáo Lò Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về hình phạt. Bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức hành vi tàng trữ trái chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào cũng là phạm tội, do bị cáo nghiện ma túy, nên bị cáo đã có hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng dần cho bản thân, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Do vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để trừng trị, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] .Về tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo không có.

Tình tiết giảm nhẹ, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Căn cứ biên bản xác minh tài sản của Cơ quan điều tra, gia đình bị cáo không có tài sản gì có giá trị. Xét thấy, bị cáo không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung. Do đó, ội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

[5].Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Số heroine thu của bị cáo Lò Văn L là 0,42 gam, đã trích rút lấy 0,10 gam để gửi mẫu giám định, còn lại 0,32 gam, đây là vật Nhà nước độc quyền quản lý và sử dụng và cấm lưu hành. Nên cần tịch thu tiêu hủy.

Về nguồn gốc số heroine, bị cáo L khai đã mua của người dân tộc Mông, bị cáo không biết tên tuổi, địa chỉ, việc mua bán trao đổi mua bán ma túy không có ai biết, chứng kiến. Ngoài lời khai của bị cáo Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La, không thu thập được tài liệu chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để mở rộng điều tra vụ án, cần chấp nhận.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định chung.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Lò Văn L, phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý ” Xử phạt Lò Văn L 20 ( hai mươi) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 25/4/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì viền xanh đổ được niêm phong dán kin. Mặt trước phong bì ghi: Tang vật thu giữ của Lò Văn L – Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 25/4/2019 tại bản Huổi Pù, xã Chiềng Hoa, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. (gồm vỏ phong bì cũ+ gói giấy cũ+ L1)

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/8/2019 giữa Công an huyện Mường La và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường La).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Lò Văn L phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án ngày./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2019/HSST ngày 16/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:60/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về