Bản án 60/2019/HS-ST ngày 16/04/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 60/2019/HS-ST NGÀY 16/04/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 16 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 60/2019/TLST-HS ngày 03/4/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2019/QĐXXST-HS ngày 05/4/2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Đăng T, sinh ngày: 27/4/1974 tại xã Đ, Đ, tỉnh T; nơi cư trú: Tiểu khu B, xã T, huyện M, tỉnh S; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 01/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Đăng X và bà Lê Thị C; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị L và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 23/7/2007 và ngày 18/11/2016 đều bị Công an huyện Mộc Châu xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc; bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 03/02/2019 đến nay. Có mặt.

2. Lê Văn T, sinh ngày: 10/12/1961 Đ, tỉnh T; nơi cư trú: Tiểu khu B, xã T, huyện M, tỉnh S; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 07/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Con ông Lê Văn C và bà Nguyễn Thị D (đều đã chết); bị cáo có vợ là Nguyễn Thị T và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 23/7/2007 bị Công an huyện Mộc Châu ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc; bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 03/02/2019 đến ngày 08/02/2019 thì được tại ngoại, đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay. Có mặt.

3. Trần Văn T M, thành phố H; nơi cư trú: Tiểu khu B, xã T, huyện M, tỉnh S; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 07/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn V và bà Trịnh Thị M (đều đã chết); bị cáo có vợ là Phùng Thị T và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 03/02/2019 đến ngày 08/02/2019 thì được tại ngoại, đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay. Có mặt.

4. Nguyễn Văn G, sinh ngày: 16/6/1979 Q, tỉnh T; nơi cư trú: Tiểu khu B, xã T, huyện M, tỉnh S; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12, dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn N (đã chết) và bà Nguyễn Thị L; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị T và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 03/02/2019 đến ngày 08/02/2019 thì được tại ngoại, đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay. Có mặt.

5. Đào Duy M, tỉnh S; nơi cư trú: Tiểu khu B, xã T, huyện M, tỉnh S; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn):07/10; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Đào Duy T và bà Hà Thị N (đều đã chết); bị cáo có vợ là Nguyễn Thị C và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 18/11/2016 bị Công an huyện Mộc Châu ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/02/2019 đến ngày 12/3/2019 thì được tại ngoại, đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay. Có mặt.

6. Nguyễn Văn H, tỉnh T; nơi cư trú: Tiểu khu B, xã T, huyện M, tỉnh S; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12, dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn Q và bà Nguyễn Thị T; bị cáo có vợ là Mai Thị V và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 03/02/2019 đến ngày 08/2/2019 thì được tại ngoại, đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay. Có mặt.

7. Nguyễn Viết T, sinh ngày: 07/8/1982 tại xã M , thành phố H; nơi cư trú: Tiểu khu B, xã T, huyện M, tỉnh S; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): Nam; con ông Nguyễn Viết K (đã chết) và bà Nguyễn Thị T; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/02/2019 đến ngày 12/3/2019 thì được tại ngoại, đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay. Có mặt.

8. Hà Văn X, sinh ngày: 01/7/1992 tại xã M, huyện V, tỉnh S; nơi cư trú: Tiểu khu B, xã T, huyện M, tỉnh S; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn):7/12, dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; con ông Hà Văn X và bà Hà Thị P; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/02/2019 đến ngày 08/02/2019 thì được tại ngoại, đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay. Có mặt.

9. Vũ Duy Đ (Tgk: Vũ Trung H), sinh ngày: 01/5/1977 tại huyện Q, tỉnh T; nơi cư trú: Tiểu khu B, xã T, huyện M, tỉnh S; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12, giới tính: Nam, tôn giáo: không; con ông Vũ Trung C và bà Nguyễn Thị N; bị cáo có vợ là Đỗ Thị H và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/02/2019 đến ngày 12/3/2019 thì được tại ngoại, đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay. Có mặt.

10. Người làm chứng: Anh Lê Văn C, sinh năm: 1974; Anh Lê Văn H, sinh năm: 1969. Đều có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trưa ngày 03/02/2019, Nguyễn Đăng T tổ chức ăn cơm tất niên ở nhà của T tại tiểu khu B, xã T, huyện M. Quá trình ăn cơm T mời hàng xóm và một số người bạn. Đến 14 giờ cùng ngày, thì một số người ra về, còn lại Lê Văn T, Trần Văn T, Đào Duy M, Vũ Duy Đ, Nguyễn Văn G và anh Lê Văn C, anh Lê Văn H đều trú tại xã T, huyện M ngồi chơi uống nước. Quá trình ngồi chơi, T quan sát thấy trên chiếc chiếu đang chải giữa sân nhà T có một bộ bài tú lơ khơ 52 quân từ Át đến K, T rủ T1, T2, M, Đ và G đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh liêng. T, T1, T2, M, Đ và G đồng ý, anh C và anh H không tham gia đánh bạc mà chỉ ngồi xem T, T1, T2, M, Đ và G đánh bạc. Các bị cáo thỏa thuận mức cược thấp nhất là 10.000 đồng, cao nhất là 100.000 đồng. Trong quá trình đánh bạc lần lượt có Nguyễn Văn H, Nguyễn Viết T và Hà Văn X đến nhà T, thấy các bị cáo đang đánh bạc nên cũng vào tham gia đánh bạc. Các bị cáo đánh bạc đến 15 giờ 30 phút cùng ngày, thì bị Tổ công tác Công an huyện Mộc Châu đến kiểm tra, phát hiện, bắt giữ đối với Nguyễn Đăng T, Lê Văn T, Trần Văn T, Đào Duy M, Nguyễn Văn G, Nguyễn Văn H, Nguyễn Viết T và Hà Văn X, riêng Vũ Duy Đ lợi dụng sơ hở của Tổ công tác đã chạy thoát. Đến ngày 12/02/2019, Vũ Duy Đ đã bị bắt giữ theo Lệnh bắt bị can để tạm giam của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu. Căn cứ vào hành vi vi phạm của các đối tượng Tổ công tác Công an huyện Mộc Châu đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng gồm: 5.240.000 đồng; 01 bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân từ Át đến K; 01 chiếc chiếu nhựa kích thước 1,6m x 2m, đều đã qua sử dụng.

Đồng thời dẫn giải các đối tượng về trụ sở Công an huyện Mộc Châu để điều tra, giải quyết theo quy định của pháp luật. Tạm giữ của Nguyễn Văn H: 01 chiếc điện thoại di động Iphone 7Plus, vỏ màu đen bên trong lắp 01 sim điện thoại số 0963.084.802; tạm giữ của Đào Duy M: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Redmi 3X, vỏ màu vàng, bên trong lắp sim điện thoại số 0875.059.881; tạm giữ của Trần Văn T: 01 chiếc điện thoại di động Nokia 1280, vỏ màu đen, bên trong lắp sim số:03448.842.158; tạm giữ của Nguyễn Văn G: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37F, vỏ màu hồng, bên trong lắp 02 sim số 0838.673.857 và 0973.987.356, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HPHONE - A117, vỏ màu đen, bên trong lắp 02 sim số 0942.275.835 và 0986.906.110; tạm giữ của Hà Văn X: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung - Galaxy J7Pro, vỏ màu bạc bên trong lắp 01 sim điện thoại số 0968.596.020, đều đã qua sử dụng.

Các bị cáo đánh bạc dưới hình thức đánh liêng sát phạt nhau bằng tiền được thực hiện như sau: Dụng cụ dùng để đánh bạc là 01 bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân bài từ quân át (A) đến quân K và 01 chiếc chiếu nhựa.

Những người tham gia đánh bạc cùng ngồi xuống chiếu bạc thành một vòng tròn, một trong số những người tham gia đánh bạc cầm bộ bài tú lơ khơ chia cho mỗi người tham gia đánh bạc 03 quân bài, sau đó những người tham gia đánh bạc so sánh tổng số điểm của 03 quân bài mà mình đang cầm trên tay. Ai có số điểm cao nhất sẽ là người chia bài để đánh bạc và là người được “tố” (đặt cược) đầu tiên. Sau khi chia cho mỗi người 03 quân bài, mỗi người chơi sẽ bỏ ra số tiền 10.000 đồng để ở giữa chiếu bạc (gọi là “góp gà”). Người chơi sẽ xem bài và xác định số điểm trên bài của mình và quyết định có cá cược hay không? Lúc này người được quyền “tố” đầu tiên sẽ “tố”, mức tố được quy định thấp nhất là 10.000 đồng và cao nhất là 100.000 đồng. Thứ tự “tố” được quy định từ người đầu tiên, tiếp theo lần lượt là những người chơi ngồi bên tay phải người “tố” đầu tiên. Khi người đó “tố” thì những người chơi khác có thể “theo” (đồng ý cá cược với mức tiền như người đã “tố”) hoặc cũng có thể không “theo”. Nếu người tham gia đánh bạc không “theo” thì sẽ úp bài, thua ván bạc đó và mất số tiền 10.000 đồng đã “góp gà”. Khi người tham gia đánh bạc “theo”, có thể “tố” thêm (đặt cược thêm tiền vào ván bài của bản thân). Những người tham gia đánh bạc đều có thể “tố”, “theo” hoặc “úp bài”. Trong một ván bạc, mỗi người tham gia đánh bạc được “tố” bao nhiêu lần tùy ý. Sau khi những người tham gia đánh bạc đã “tố”, “theo” và thống nhất so sánh điểm để xác định người thắng ván bạc đó. Người thắng bạc sẽ nhận được số tiền đã “góp gà” và số tiền mà những người chơi tham gia cá cược (“tố” và “theo”). Người thua bạc sẽ mất số tiền mà bản thân đã “góp gà” và cá cược (“tố” và “theo”). Ván bạc tiếp theo được bắt đầu khi người thắng bạc ở ván bài trước đó cầm bộ bài tú lơ khơ lên và chia bài cho những người tham gia đánh bạc khác, hình thức sát phạt được thực hiện tương tự như ván bài đầu tiên.

Quy định về việc so sánh điểm trên bài của người tham gia đánh bạc như sau:

Người chơi có 03 quân bài giống nhau gọi là “sáp”, trong đó “sáp át” (có 03 quân bài A) là lớn nhất, sau đó lần lượt đến “sáp K”, “sáp Q”, “sáp J”, “sáp 10”…

Tiếp theo là đến “liêng”: 03 quân bài có số thứ tự liền kề nhau. Ví dụ: (Q,K,A), (J,Q,K), (7,8,9)…Trong đó “liêng” (Q,K,A) là lớn nhất rồi lần lượt đến (J,Q,K), (10,J,Q), (9,10,J), (8,9,10).

Tiếp theo là đến “ảnh”: 03 quân bài có hình người trên quân bài. Ví dụ: (Q,K,K),,(J,Q,Q), (J,K,K)…Trong đó (Q,K,K) là lớn nhất rồi lần lượt đến (J,K,K), (Q,Q,K)…

Tiếp theo người chơi sẽ cộng số điểm của 03 quân bài, ai có số điểm cao nhất sẽ là người thắng bạc. Trong đó các quân bài 10, J, Q, K được quy ước là 0 điểm. Số điểm cao nhất là 9 điểm, lần lượt đến 8 điểm, 7 điểm…

Trường hợp đặc biệt: Nếu những người chơi có số điểm bằng nhau thì sẽ so sánh đến “chất” của quân bài. Ai có quân bài “chất rô” lớn hơn sẽ thắng. Nếu không có “chất rô” sẽ so sánh lần lượt đến “chất cơ”, “chất nhép”, “chất bích”.

Số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc như sau: Nguyễn Đăng T sử dụng 470.000 đồng vào việc đánh bạc; Lê Văn T sử dụng 450.000 đồng vào việc đánh bạc; Trần Văn T sử dụng 200.000 đồng vào việc đánh bạc; Nguyễn Văn G sử dụng300.000 đồng vào việc đánh bạc; Đào Duy M sử dụng 100.000 đồng vào việc đánh bạc; Nguyễn Văn H sử dụng 960.000 đồng vào việc đánh bạc; Nguyễn Viết T sử dụng 400.000 đồng vào việc đánh bạc; Hà Văn X sử dụng 1.500.000 đồng vào việc đánh bạc; Vũ Duy Đ sử dụng 860.000 đồng vào việc đánh bạc. Như vậy tổng số tiền các bị cáo nêu trên bỏ ra sử dụng để đánh bạc là: 5.240.000 đồng. Toàn bộ số tiền trên các bị cáo đang để tại chiếu bạc thì bị phát hiện, bắt quả tang và thu giữ theo quy định của pháp luật.

Đối với hành vi của Nguyễn Đăng T cho 08 đối tượng cùng tham gia đánh bạc tại nhà của mình. Nguyễn Đăng T không tổ chức việc đánh bạc và không thu tiền (tiền hồ) của các đối tượng tham gia đánh bạc nên không phạm tội Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.

Trong vụ án có đề cập đến anh Lê Văn C và anh Lê Văn H đều trú tại: tiểu khu B, xã T, huyện M. Quá trình điều tra xác định anh C và anh H không tham gia đánh bạc cùng các bị cáo. Do vậy, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không xử lý. Tuy nhiên đã nhắc nhở yêu cầu anh C và anh H, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân trong công tác đấu tranh, phòng, chống vi phạm và tội phạm.

Cáo trạng số 60/CT-VKSMC ngày 03/4/2019 Viện kiểm sát nhân dânhuyện Mộc Châu truy tố Nguyễn Đăng T, Lê Văn T, Trần Văn T, Nguyễn Văn G, Đào Duy M, Nguyễn Văn H, Nguyễn Viết T, Hà Văn X, Vũ Duy Đ (Tgk: Vũ Trung H) về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đăng T, Lê Văn T, Trần Văn T, Nguyễn Văn G, Đào Duy M, Nguyễn Văn H, Nguyễn Viết T, Hà Văn X, Vũ Duy Đ (Tgk : Vũ Trung H) phạm tội “Đánh bạc” Căn cứ các căn cứ pháp luật như sau:

1. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s, t khoản 1 Điều 51; khoản 2, 3 Điều 35 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng T từ 07 tháng đến 10 tháng tù. Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.

2. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s, t khoản 1 Điều 51, Điều 58; khoản 2, 3 Điều 35; khoản 1, 2, 3 Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Văn T từ 07 tháng đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 14 tháng đến 20 tháng. Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.

3. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s, t khoản 1 Điều 51, Điều 58; khoản 2, 3 Điều 35; khoản 1, 2, 3 Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn T từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng. Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.

4. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s, t khoản 1 Điều 51, Điều 58; khoản 2, 3 Điều 35; khoản 1, 2, 3 Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn G từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng. Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.

5. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s, t khoản 1 Điều 51, Điều 58; khoản 2, 3 Điều 35; khoản 1, 2, 3 Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đào Duy M từ 07 tháng đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 14 tháng đến 20 tháng. Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.

6. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s, t khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58; khoản 2, 3; khoản 1, 2, 3 Điều 65 Bộ luật hình sự Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng. Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.

7. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s, t khoản 1 Điều 51, Điều 58; khoản 2, 3 Điều 35; khoản 1, 2, 3 Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Viết T từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng. Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.

8. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58; khoản 2, 3 Điều 35; khoản 1, 2, 3 Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hà Văn X từ 07 tháng đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 14 tháng đến 20 tháng. Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.

9. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58; khoản 2, 3 Điều 35; khoản 1, 2, 3 Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Duy Đ từ 07 tháng đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 14 tháng đến 20 tháng. Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.

10. Căn cứ khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 5.240.000 đồng (Năm triệu hai trăm bốn mươi nghìn đồng).

Tạm giữ: 01 chiếc điện thoại di động Iphone 7Plus vỏ màu đen, bên trong lắp 01 sim điện thoại số 0963.084.802 thu giữ của Nguyễn Văn H; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Redmi 3X vỏ màu vàng, bên trong lắp 01 sim điện thoại số 0875.059.881 thu giữ của Đào Duy M; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 01 chiếc điện thoại di động Nokia 1280 vỏ màu đen, bên trong lắp 01 sim điện thoại số03448.842.158 thu giữ của Trần Văn T; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A37F vỏ màu hồng, bên trong lắp 02 sim điện thoại số 0838.673.857 và 0973.987.356 thu giữ của Nguyễn Văn G; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Hpphone - A117 vỏ màu đen, bên trong lắp 02 sim điện thoại số 0942.275.835 và 0986.906.110 thu giữ của Nguyễn Văn G; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung – Galaxy J7Pro vỏ màu bạc, bên trong lắp 01 sim điện thoại số 0968.596.020 thu giữ của Hà Văn X để đảm bảo việc thi hành án về phần án phí và hình phạt bổ sung.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng một bộ tú lơ khơ 52 quân, từ Át đến K, đã qua sử dụng; 01 chiếc chiếu nhựa, kích thước 1,6 x 2 mét, trên mặt chiếu có hoa văn sọc màu xanh - vàng - trắng, đã qua sử dụng; 06 vỏ phong bì đã dùng để niêm phong điện thoại thu giữ của các bị cáo.

11. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo nhất trí với cáo trạng và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng: Các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi và trách nhiệm hình sự của các bị cáo:

Tại phiên toà, các bị cáo giữ nguyên lời khai như đã khai tại cơ quan điều tra, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu. Xét lời khai của các bị cáo là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 03/02/2019, phù hợp với tang vật vụ án đã thu giữ, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Do vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 03/02/2019 tại nhà bị cáo Nguyễn Đăng T, các bị cáo Lê Văn T, Trần Văn T, Nguyễn Văn G, Đào Duy M, Nguyễn Văn H, Nguyễn Viết T, Hà Văn X, Vũ Duy Đ cùng Nguyễn Đăng T tham gia đánh bạc bằng hình thức đánh liêng sát phạt nhau được thua bằng tiền. Thu giữ tại chiếu bạc của các bị cáo số tiền là 5.240.000 đồng. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự quy định phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Đối với bị cáo Nguyễn Đăng T là người trực tiếp tham gia đánh bạc, dùng nơi ở của mình cho người khác đánh bạc nhưng không thu tiền hồ của các bị cáo tham gia đánh bạc nên không phạm tội Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc quy định tại Điều 322 Bộ luật hình sự.

Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự công cộng, xâm phạm nếp sống văn minh của xã hội. Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm dân sự, nhận thức rõ hành vi đánh bạc trái phép là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn hưởng lợi bất chính nên vẫn cố ý thực hiện. Do đó, cần phải có hình phạt tương xứng đối với từng bị cáo nhằm răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

Các bị cáo phạm tội trong trường hợp đồng phạm, do đó khi quyết định hình phạt cần căn cứ Điều 58 Bộ luật hình sự xem xét tính chất của đồng phạm, tính chất mức độ tham gia phạm tội của từng bị cáo. Phân hoá vai trò của các bị cáo xét thấy bị cáo Nguyễn Đăng T là người khởi xướng việc đánh bạc, chuẩn bị đồ để đánh bạc đồng thời trực tiếp tham gia đánh bạc nên giữ vai trò chính trong vụ án. Các bị cáo Lê Văn T, Trần Văn T, Nguyễn Văn G, Đào Duy M, Nguyễn Văn H, Nguyễn Viết T, Hà Văn X, Vũ Duy Đ là người tiếp nhận ý trí, cùng tham gia đánh bạc đều là đồng phạm trong vụ án.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Đăng T, Lê Văn T, Trần Văn T, Nguyễn Văn G, Đào Duy M, Nguyễn Văn H, Nguyễn Viết T, Hà Văn X, Vũ Duy Đ đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên các bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo Nguyễn Đăng T, Lê Văn T, Trần Văn T, Nguyễn Văn G, Đào Duy M, Nguyễn Văn H, Nguyễn Viết T trong quá trình điều tra đã tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm nên các bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Hà Văn X có ông nội được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhất, bị cáo Nguyễn Văn H có bố đẻ là người có công với cách mạng, nên các bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Đối với bị cáo Nguyễn Đăng T là người khởi xướng việc đánh bạc đồng thời là người cung cấp các công cụ dùng để đánh bạc và chứa chấp việc đánh bạc tại nhà, bị cáo đã có 02 tiền sự về hành vi đánh bạc, tuy nhiên đã được xóa tiền sự, do vậy cần phải cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian nhằm răn đe, phòng ngừa và giáo dục chung.

Các bị cáo Lê Văn T, Trần Văn T, Nguyễn Văn G, Đào Duy M, Nguyễn Văn H, Nguyễn Viết T, Hà Văn X, Vũ Duy Đ đều có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, ngoài lần phạm tội này, các bị cáo đều chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, các bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, các bị cáo đều có đơn bảo lãnh xin được cải tạo, giáo dục tại địa phương, do vậy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra ngoài đời sống xã hội mà cần Căn cứ Điều 65 Bộ luật hình sự giao các bị cáo về cho gia đình và chính quyền địa phương nơi các bị cáo cư trú giám sát, giáo dục, các bị cáo cũng có thể trở thành người có ích cho gia đình và xã hội về sau.

[5] Về hình phạt bổ sung - phạt tiền: Quá trình điều tra, xét thấy các bị cáo Nguyễn Đăng T, Lê Văn T, Trần Văn T, Nguyễn Văn G, Đào Duy M, Nguyễn Viết T, Nguyễn Văn H, Hà Văn X, Vũ Duy Đ đều là lao động tự do và trồng trọt, thu nhập ổn định, có tài sản riêng nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Đối với anh Lê Văn C và anh Lê Văn H đều trú tại tiểu khu B, xã T, huyện M, tỉnh S. Quá trình điều tra xác định anh C và anh H không tham gia đánh bạc cùng các bị cáo do đó không xem xét điều tra, xử lý.

[7] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 5.240.000 đồng (Năm triệu hai trăm bốn mươi nghìn đồng) là tiền các bị cáo dùng đánh bạc nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Đối với: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng một bộ tú lơ khơ 52 quân, từ Át đến K, đã qua sử dụng; 01 chiếc chiếu nhựa, kích thước 1,6 x 2 mét, trên mặt chiếu có hoa văn sọc màu xanh - vàng - trắng, đã qua sử dụng; 06 vỏ phong bì đã dùng để niêm phong điện thoại thu giữ của các bị cáo. Xét là công cụ các bị cáo dùng vào việc phạm tội, vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với: 01 chiếc điện thoại di động Iphone 7Plus vỏ màu đen, bên trong lắp 01 sim điện thoại số 0963.084.802 thu giữ của Nguyễn Văn H; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Redmi 3X vỏ màu vàng, bên trong lắp 01 sim điện thoại số 0875.059.881 thu giữ của Đào Duy M; 01 chiếc điện thoại di động Nokia 1280 vỏ màu đen, bên trong lắp 01 sim điện thoại số 03448.842.158 thu giữ của Trần Văn T; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A37F vỏ màu hồng, bên trong lắp 02 sim điện thoại số 0838.673.857 và 0973.987.356 thu giữ của Nguyễn Văn G; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Hpphone - A117 vỏ màu đen, bên trong lắp 02 sim điện thoại số 0942.275.835 và 0986.906.110 thu giữ của Nguyễn Văn G; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung – Galaxy J7Pro vỏ màu bạc, bên trong lắp 01 sim điện thoại số 0968.596.020 thu giữ của Hà Văn X cần tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án về phần án phí và hình phạt bổ sung.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Thời hạn tạm giam của bị cáo Nguyễn Đăng T còn lại dưới 45 ngày do đó Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam 45 ngày đối với bị cáo để bảo đảm việc thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Đăng T, Lê Văn T, Trần Văn T, Nguyễn Văn G, Đào Duy M, Nguyễn Văn H, Nguyễn Viết T, Hà Văn X, Vũ Duy Đ phạm tội “Đánh bạc”.

1. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s, t khoản 1 Điều 51; khoản 2, 3 Điều 35 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng T 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 03/02/2019.

Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng chẵn).

2. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s, t khoản 1 Điều 51, Điều 58; khoản 2, 3 Điều 35; khoản 1, 2, 3 Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Văn T 07 (bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 (mười bốn) tháng. Thời gian thử thách của bị cáo tính từ ngày 16/4/2019.

Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng chẵn).

3. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s, t khoản 1 Điều 51, Điều 58; khoản 2, 3 Điều 35; khoản 1, 2, 3 Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn T 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng. Thời gian thử thách của bị cáo tính từ ngày 16/4/2019.

Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng chẵn).

4. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s, t khoản 1 Điều 51, Điều 58; khoản 2, 3 Điều 35; khoản 1, 2, 3 Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn G 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng. Thời gian thử thách của bị cáo tính từ ngày 16/4/2019.

Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng chẵn).

5. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s, t khoản 1 Điều 51, Điều 58; khoản 2, 3 Điều 35; khoản 1, 2, 3 Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đào Duy M 07 (bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 (mười bốn) tháng. Thời gian thử thách của bị cáo tính từ ngày 16/4/2019.

Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng chẵn).

6. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s, t khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58; khoản 2, 3; khoản 1, 2, 3 Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng. Thời gian thử thách của bị cáo tính từ ngày 16/4/2019.

Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng chẵn).

7. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s, t khoản 1 Điều 51, Điều 58; khoản 2, 3 Điều 35; khoản 1, 2, 3 Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Viết T 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng. Thời gian thử thách của bị cáo tính từ ngày 16/4/2019.

Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng chẵn).

8. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58; khoản 2, 3 Điều 35; khoản 1, 2, 3 Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hà Văn X 07 (bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 (mười bốn) tháng. Thời gian thử thách của bị cáo tính từ ngày 16/4/2019.

Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng chẵn).

9. Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58; khoản 2, 3 Điều 35; khoản 1, 2, 3 Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Duy Đ 07 (bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 (mười bốn) tháng tù. Thời gian thử thách của bị cáo tính từ ngày 16/4/2019.

Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng chẵn).

Giao các bị cáo Lê Văn T, Trần Văn T, Nguyễn Văn G, Đào Duy M, Nguyễn Văn H, Nguyễn Viết T, Hà Văn X, Vũ Duy Đ cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện M, tỉnh S giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

10. Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 5.240.000 đồng (Năm triệu hai trăm bốn mươi nghìn đồng).

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng một bộ tú lơ khơ 52 quân, từ Át đến K, đã qua sử dụng; 01 chiếc chiếu nhựa, kích thước 1,6 x 2 mét, trên mặt chiếu có hoa văn sọc màu xanh - vàng - trắng, đã qua sử dụng; 06 phong bì dùng để niêm phong điện thoại của các bị cáo.

Tạm giữ: 01 chiếc điện thoại di động Iphone 7Plus thu giữ của Nguyễn Văn H, vỏ màu đen, bên trong lắp 01 sim điện thoại số 0963.084.802, đã qua sử dụng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Redmi 3X thu giữ của Đào Duy M, vỏ màu vàng, bên trong lắp 01 sim điện thoại số 0875.059.881, đã qua sử dụng; 01 chiếc điện thoại di động Nokia 1280 thu giữ của Trần Văn T, vỏ màu đen, bên trong lắp 01 sim điện thoại số 03448.842.158, đã qua sử dụng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A37F thu giữ của Nguyễn Văn G, vỏ màu hồng, bên trong lắp 02 sim điện thoại số 0838.673.857 và 0973.987.356, đã qua sử dụng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Hpphone - A117 thu giữ của Nguyễn Văn G, vỏ màu đen, bên trong lắp 02 sim điện thoại số 0942.275.835 và 0986.906.110, đã qua sử dụng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung – Galaxy J7Pro thu giữ của Hà Văn X, vỏ màu bạc, bên trong lắp 01 sim điện thoại số 0968.596.020, đã qua sử dụng để đảm bảo việc thi hành án về phần án phí và hình phạt bổ sung.

11. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Các bị cáo Nguyễn Đăng T, Lê Văn T, Trần Văn T, Nguyễn Văn G, Đào Duy M, Nguyễn Văn H, Nguyễn Viết T, Hà Văn X, Vũ Duy Đ phải án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2019/HS-ST ngày 16/04/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:60/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về