Bản án 60/2019/HSST ngày 05/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 60/2019/HSST NGÀY 05/03/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 3 năm 2019 tại Hội trường, Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tiền hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 67/2019/HSST, ngày 31 tháng 01 năm 2019, đối với các bị cáo:

1. Lê Đ, sinh ngày 09/9/1983.

ĐKNKTT: Tổ M, phường HV, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Lê Văn M (đã chết); con bà: Huỳnh Ngọc T, sinh năm 1956. Gia đình có 06 chị em, bị cáo là con thứ hai; Vợ, con: Chưa có.

Tiến án; Tiền sự: Không.

Bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên từ ngày26/10/2018 đến nay (có mặt tại phiên tòa).

2. Nguyễn Xuân T, sinh ngày 17/12/1976.

ĐKNKTT: Tổ G, phường PĐ, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: không; Con ông: Nguyễn Văn T, sinh năm 1948; con bà: Vũ Thị C, sinh năm 1950. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là thứ nhất; có vợ là: Vũ Thuỳ G, sinh năm 1981; có 02 con, lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2018.

Tiến án; Tiền sự: Không.

- Nhân thân: Tại Bản án số 166/HS.ST ngày 10/7/2002 của Toà án nhân dân quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, phạt 5.000.000 đồng sung quỹ nhà nước, án phí 50.000 đồng. Ra trại ngày 18/5/2004. Xác minh tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh: Kết quả Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh xác định chưa nhận được bản án trên của toà án.

Tại Bản án số 377/2009/HSST ngày 18/11/2009 của Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 07 năm 06 tháng tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, phạt 5.000.000 đồng sung quỹ nhà nước, án phí 200.000 đồng. Ra trại ngày 27/12/2014. Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung và nộp án phí ngày 04/7/2013.

Tại Quyết định số 987/QĐ-UBND ngày 20/4/2006 của Uỷ ban nhân dân thành phố Thái Nguyên đưa người nghiện ma tuý vào chữa bệnh tại Trung tâm Giáo dục xã hội 05-06 tỉnh Thái Nguyên trong thời hạn 12 tháng đối với Nguyễn Xuân T.

Tại Quyết định số 5924 ngày 13/8/2008 của Uỷ ban nhân dân thành phố Thái Nguyên đưa người nghiện ma tuý vào chữa bệnh tại Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục – Lao động – Xã hội Thái Nguyên trong thời hạn 20 tháng đối với Nguyễn Xuân T.

Bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên từ ngày26/10/2018 đến nay (Có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi liên quan:

Anh Nguyễn Thanh B, sinh năm 1982 (vắng tại phiên tòa).

Nơi cư trú: Xóm T, xã Q, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên.

Người chứng kiến:

1. Anh Trần Đức B, sinh năm 1964 (vắng tại phiên tòa);

Nơi cư trú: Xóm G, phường Đ, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên.

2. Anh Vũ Văn T, sinh năm 1959 (vắng tại phiên tòa);

Nơi cư trú: Xóm G, phường Đ, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên.

3. Anh Hà Việt D, sinh năm 1962 (vắng tại phiên tòa);

Nơi cư trú: Tổ L, phường HV, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên.

4. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1958 (vắng tại phiên tòa);

Nơi cư trú: Tổ I, phường HV, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 17 giờ 30 phút ngày 26/10/2018, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực tổ I, phường HV, thành phố TH thì phát hiện 02 nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma tuý, tổ công tác tiếp cận yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra 02 nam thanh niên tự khai tên là Lê Đ và Nguyễn Thanh B. Kiểm tra đối với Nguyễn Thanh B tổ công tác không phát hiện thu giữ gì. Kiểm tra đối với Lê Đ tổ công tác phát hiện 01 gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng và 01 viên nén màu hồng tại túi quần phía trước bên phải của Đ, phát hiện tại túi quần phía trước bên trái Đ đang mặc có 01 gói giấy màu trắng bên trong có chất bột màu trắng và 01 viên nén màu hồng, Đ khai nhận đó là ma tuý heroine và hồng phiến của Đ. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ 320.000 đồng (gồm 03 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng) trong lòng bàn tay phải của Đ, 01 xe máy nhãn hiệu SUZUKI VIVA màu xanh, BKS: 20H2-04XX. Phát hiện thu giữ dưới đất cạnh vị trí Đ đang đứng 01 điện thoại nhãn hiệu NOKIA màu đen đã qua sử dụng.

Vào hồi 18 giờ ngày 26/10/2018, tổ công tác của Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an thành phố Thái Nguyên nhận được tin báo của quần chúng nhân dân tại nhà ông Vũ Văn T, trú tại: Xóm G, phường Đ, thành phố TH đang có các đối tượng tụ tập có biểu hiện mua bán trái phép chất ma tuý, tổ công tác đã tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra thấy có ông Vũ Văn T là chủ nhà và Nguyễn Xuân T đang ở nhà. Quá trình kiểm tra đối với Vũ Văn T không phát hiện thu giữ gì. T tự giác giao nộp từ túi áo ngực phía trước bên trái T đang mặc 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa 02 cục chất bột màu trắng và 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa 08 viên nén màu hồng, T khai nhận đó là ma tuý của T mua về để sử dụng và bán kiếm lời. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên thi hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Xuân T tại tổ G, phường PĐ, thành phố TH, nhưng không phát hiện thu giữ gì.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiên hành mở niêm phong cân xác định khối lượng:

- 01 gói giấy màu trắng thu giữ của Lê Đ bên trong chứa: Chất bột màu trắng có khối lượng 0,152 gam (đã lấy mẫu ký hiệu D1 gửi giám định) và 01 viên nén màu hồng có khối lượng 0,093 gam (đã lấy mẫu ký hiệu D2gửi giám định).

- 01 gói giấy màu trắng thu giữ của Lê Đ bên trong chứa: Chất bột màu trắng có khối lượng 0,140 gam (đã lấy mẫu ký hiệu D3 gửi giám định) và 01 viên nén màu hồng có khối lượng 0,102 gam (đã lấy mẫu ký hiệu D4gửi giám định).

- 01 gói nilon màu trắng thu giữ của Nguyễn Xuân T bên trong chứa: 02 cục chất bột màu trắng có khối lượng 3,751 gam (đã lấy mẫu ký hiệu T1gửi giám định).

- 01 gói nilon màu trắng thu giữ của Nguyễn Xuân T bên trong chứa: 08 viên nén màu hồng có khối lượng 0,782 gam (đã lấy mẫu ký hiệu T2gửi giám định).

Tại Kết luận giám định số 1169/KL-PC09 ngày 31/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận:

Chất bột màu trắng trong mẫu D1 ghi thu giữ của Lê Đ là chất ma tuý, loại Heroine, có khối lượng là 0,152 gam.

Viên nén màu hồng trong mẫu D2 ghi thu giữ của Lê Đ là chất ma tuý, loại Methamphetamin,có khối lượng là 0,093 gam.

Chất bột màu trắng trong mẫu D3ghi thu giữ của Lê Đ là chất ma tuý, loại Heroine,có khối lượng 0,140 gam.

Viên nén màu hồng trong mẫu D4ghi thu giữ của Lê Đ là chất ma tuý, loại Methamphetamin,có khối lượng là 0,102 gam.

Tại Kết luận giám định số 1170/KL-PC09 ngày 01/11/2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận:

Chất bột màu trắng trong mẫu T1 ghi thu giữ của Nguyễn Xuân T là chất ma tuý, loại Heroine, có khối lượng là 3,751 gam.

Viên nén màu hồng trong mẫu T2 ghi thu giữ của Nguyễn Xuân T là chất ma tuý, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,782 gam.

Tại cơ quan điều tra Lê Đ và Nguyễn Xuân T khai nhận: Khoảng 17 giờ ngày 26/10/2018, khi Đ và T đang sửa nhà vệ sinh tại nhà ông Vũ Văn T thì Nguyễn Thanh B gọi điện thoại cho T hỏi mua ma tuý Heroine và hồng phiến. T đồng ý và đưa cho Đ 01 gói giấy màu trắng bên trong chứa Heroine và 01 viên hồng phiến để Đ mang đi bán hộ. T trả công cho Đ 01 gói giấy bên trong chứa Heroine và 01 viên hồng phiến. T đưa cho Đ 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen để liên lạc và 01 xe mô tô nhãn hiệu Suzuki BKS 20H2-04XX để đi bán ma tuý. Sau đó, Đ gọi điện thoại hẹn B đến khu vực đầu đường P, thuộc tổ I, phường HV, thành phố TH. Tại đây, B đưa cho Đ 320.000 đồng để mua ma tuý. Đ cầm tiền nhưng Đ chưa kịp đưa ma tuý cho B thì bị tổ công tác Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Vật chứng của vụ án bao gồm: 02 bì niêm phong đúng quy định kí hiệu T1, T2 (bên trong có chứa ma tuý Heroine và hồng phiến); 02 bì niêm phong ký hiệu D1, D3 bên trong chứa ma tuý; 01 điện thoại di động Nokia màu đen, số Imei 1: 3548900838254XX; số Imei 2: 3548900838254XX thu giữ dưới đất cạnh vị trí Lê Đại đứng; 01 điện thoại di động Nokia màu xanh, số Imei 1: 3520XX/04/560901/2 thu giữ của Nguyễn Thanh Bình; Số tiền 320.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; 01 xe mô tô nhãn hiệu Suzuki BKS 20H2-04XX, số khung BE42F- VN1189XX, số máy E418-VN1189XX (Đăng ký xe mang tên Ngô Trung K, sinh năm: 1980, trú tại: Tổ D, thị trấn CH, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Năm 2007, anh Kiên đã bán chiếc xe trên cho ông Ngô Quốc C, sinh năm: 1966, trú tại: Tổ A, phường CH, thành phố TH với giá 8.000.000 đồng. Tháng 10 năm 2018, ông C bán chiếc xe trên cho Nguyễn Xuân T với giá 2.300.000 đồng).

Tại bản cáo trạng số 85/ CT- VKSTPTN, ngày 31/01/ 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố Lê Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, Nguyễn Xuân Tvề tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toàcác bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi đúng như lời khai tại Cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả.

Tại phần tranh luận, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã công bố bản luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tốvà đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Lê Đ từ 42 tháng tù đến 46 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 phạt bổ sung bị cáo Lê Đ từ 5.000.000đ đến 7.000.000đ.

Áp dụng điểm điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Nguyễn Xuân Ttừ 08 năm 6 tháng tù đến 09 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Xuân T từ 8.000.000đ đến 10.000.000đ.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng: Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu tiêu hủy vật chứng: 04 bì niêm phong đúng quy định kí hiệu T1, T2, D1, D3 (bên trong có chứa ma tuý). Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động Nokia màu đen, số Imei 1: 3548900838254XX; số Imei 2: 3548900838254XX; 01 điện thoại di động Nokia màu xanh, số Imei 1: 3520XX/04/560901/2; Số tiền 320.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; 01 xe mô tô đã qua sử dụng BKS 20H2-04XX nhãn hiệu Suzuki màu xanh, loại xe 50-175cm3, số loại FD 110, dung tích xi lanh 109, số khung F-VN1189XX, số máy E418-VN1189XX, tình trạng xe có 01 gương trái, thân vỏ xe vỡ nát nhiều chỗ.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST nộp ngân sách nhà nước.

Trong phần tranh luận,các bị cáo không tranh luận thừa nhận việc truy tố, xét xử là không oan.Các bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

- Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội: Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, các bị cáo xác định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố là đúng người, đúng tội. Xét thấy lời nhận tội của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong vật chứng, biên bản cân xác định trọng lượng, Kết luận giám định, lời khai của người làm chứng và những chứng cứ, tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Hồi 17 giờ 30 phút ngày 26/10/2018, tại tổ K, phường HV, thành phố TH, Lê Đ đã có hành vi cất giữ trong người 0,292 gam Heroine và 0,195 gam Methamphetamine mục đích sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời thì bị tổ công tác Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng. Hồi 18 giờ cùng ngày, tại xóm G, phường Đ, thành phố TH, Nguyễn Xuân T đã có hành vi cất giữ trong người 3,751 gam Heroine và 0,782 gam Methamphetamine mục đích sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời thì bị tổ công tác của Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng. Trong vụ án này có 0,487 gam Heroine và Methamphetamine thu giữ của Lê Đ là của Nguyễn Xuân T nhờ Đ bán hộ và trả công cho Đ nên Nguyễn Xuân T phải chịu chung về số lượng ma túy này. Như vậy Nguyễn Xuân T phải chịu trách nhiệm về tổng trọng lượng các chất ma túy là 5,02g.

Hành vi của các bị cáo Lê Đ, Nguyễn Xuân T đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Hành vi của bị cáo Lê Đ đã phạm vào khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015. Hành vi của bị cáo Nguyễn Xuân T đã phạm vào điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a, ...

p, Có 02 chất ma tuý trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o khoản này.

Do vậy các bị cáo phải chịu hình phạt mà điều luật đã quy định.

- Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền về ma túy của nhà nước, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự của địa phương, ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế của bản thân các bị cáo. Ngoài ra, hành vi của các bị cáo còn là nguyên nhân dẫn đến căn bệnh thế kỷ HIV – AIDS, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác. Nên cần có hình phạt tương xứng với tội trạng của các bị cáo gây ra để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy: Các bị cáo đều không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tạiĐiều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Bị cáo Lê Đ và Nguyễn Xuân T được hưởng hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” cùng quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xét về nhân thân của các bị cáo thì thấy: Bị cáo Lê Đ là người có nghiện ma túy, phạm tội lần đầu chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo Nguyễn Xuân T đã nhiều lần bị xét xử và cũng đã nhiều lần bị áp dụng biện pháp hành chính buộc đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy nhưng bị cáo không cai nghiện mà tiếp tục phạm tội. Tuy không xác định là tiền án, tiền sự đối với bị cáo T nhưng điều đó chứng tỏ bị cáo T là người có nhân thân xấu, có ý thức chấp hành pháp luật kém.

Xét về vai trò của các bị cáo trong vụ án: Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, tuy nhiên về vai trò thì bị cáo T là người khởi xướng, là người trực tiếp liên lạc và đưa ma túy cho bị cáo Đại đi bán. Bị cáo Đ là người trực tiếp thực hiện hành vi đem ma túy đi bán. Các bị cáo đều tích cực trong việc thực hiện hành vi phạm tội.

Căn cứ vào tính chất, mức độ tội phạm do các bị cáo thực hiện, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng các bị cáo là người nghiện ma túy không chịu cai nghiện, không chịu lao động, không chịu rèn luyện và ý thức chấp hành pháp luật kém. Vì vậy, cần có một mức án nghiêm khắc để giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật TTHS năm 2015 ra Quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo Lê Đ và bị cáo Nguyễn Xuân T 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án.

Các bị cáo phạm tội nhằm mục đích thu lời bất chính do đó cần áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đề nghị nêu trên của Viện kiểm sát là phù hợp.

Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ 04 bì niêm phong đúng quy định kí hiệu T1, T2, D1, D3 (bên trong có chứa ma tuý), là vật chứng phạm tội, không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy.

Ngoài ra 01 điện thoại di động đã qua sử dụng, nhãn hiệu Nokia màu đen, số Imei 1: 3548900838254XX; số Imei 2: 3548900838254XX (thu của bị cáo Lê Đ); 01 điện thoại di động Nokia màu xanh, số Imei 1: 3520XX/04/560901/2; Số tiền 320.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (thu của Nguyễn Thanh B), 01 xe mô tô đã qua sử dụng BKS 20H2-04XX nhãn hiệu Suzuki màu xanh, loại xe 50-175cm3, số loại FD 110, dung tích xi lanh 109, số khung F-VN1189XX, số máy E418-VN1189XX, tình trạng xe có 01 gương trái, thân vỏ xe vỡ nát nhiều chỗ (xe của bị cáo Thìn). Hai chiếc điện thoại, số tiền và chiếc xe máy, bị cáo T, bị cáo Đ và Nguyễn Thanh B dùng vào việc liên lạc, làm phương tiện để mua bán ma túy nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước. Cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý các vật chứng nêu trên.

- Về những vấn đề khác:

Án phí: hai bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp sung quỹ Nhà nước, theo quy định của pháp luật.

Thông báo cho các bị cáocó quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.

Bởi các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:Hai bị cáo Lê Đ và Nguyễn Xuân T, phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy"

1. Về hình phạt: Áp dụng khoản1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luât hình sự năm 2015 xử phạt: Lê Đ 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày26/10/2018.

Áp dụng điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luât hình sự năm 2015 xử phạt:

Nguyễn Xuân T 08 (tám) năm tù giam, thời hạn tù tính từ ngày 26/10/2018.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật TTHS năm 2015 Quyết định tiếp tục tạm giam mỗi bị cáo Lê Đ và Nguyễn Xuân T 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án.

2. Hình phạt bổ sung:

Áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 phạt:

- Lê Đ: 5.000.000đ (năm triệu đồng) nộp ngân sách nhà nước.

- Nguyễn Xuân T 10.000.000đ (mười triệu đồng) nộp ngân sách nhà nước.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy 04 bì niêm phong đúng quy định kí hiệu T1, T2, D1, D3 (bên trong có chứa ma tuý).

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động đã qua sử dụng, nhãn hiệu Nokia màu đen, số Imei 1: 3548900838254XX; số Imei 2: 3548900838254XX; 01 điện thoại di động Nokia màu xanh, số Imei 1: 3520XX/04/560901/2; số tiền 320.000 đồng (ba trăm hai mươi ngàn đồng) và 01 xe mô tô đã qua sử dụng BKS 20H2-04XX nhãn hiệu Suzuki màu xanh, loại xe 50- 175cm3, số loại FD 110, dung tích xi lanh 109, số khung F-VN1189XX, số máy E418-VN1189XX, tình trạng xe có 01 gương trái, thân vỏ xe vỡ nát nhiều chỗ.

Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng số 154 ngày 31/01/2019 và Ủy nhiệm chi số 7 ngày 28/01/2019 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án thành phố Thái Nguyên.

4. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ –UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí HSST nộp ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2019/HSST ngày 05/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:60/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về