Bản án 60/2019/HNGĐ-ST ngày 23/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 60/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 394/2019/TLST-HNGĐ ngày 02-7-2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2019/QĐST-HNGĐ ngày 06-9-2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1987;

Địa chỉ cư trú: Khu phố M, phường N, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh; Có mặt.

Bị đơn: Anh Nguyễn Hồng K, sinh năm 1984;

Địa chỉ cư trú: Khu phố M, phường N, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh;

Vắng mặt (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 24-6-2019, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị N trình bày:

Chị và anh K tự nguyện tìm hiểu, chung sống vợ chồng từ năm 2012, đến năm 2013 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường C, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Quá trình chung sống giữa vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh K thường xuyên uống rượu, không quan tâm và chăm lo cho gia đình. Bên cạnh đó, nguyên nhân còn xuất phát từ việc chị mâu thuẫn với gia đình chồng trong việc nuôi dạy con, tiền bạc... Anh chị ly thân từ tháng 4– 2019 cho đến nay, hiện nay chị đang sống ở nhà trọ. Chị xác định tình cảm không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh K.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung tên Nguyễn Hồng T, sinh ngày: 06-10- 2012. Khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Hồng T, sinh ngày: 06-10-2012, chị không yêu cầu anh K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 15-7-2019, biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải ngày 06-9-2019 anh Khanh trình bày:

Anh thống nhất với lời trình bày của chị N về thời gian chung sống, kết hôn và mâu thuẫn vợ chồng. Anh có nguyện vọng đoàn tụ vợ chồng nhưng vợ anh đã kiên quyết nên anh đồng ý ly hôn với chị N.

Về con chung: Anh chị 01 con chung tên Nguyễn Hồng T, sinh ngày: 06-10-2012. Khi ly hôn anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Hồng T, sinh ngày: 06-10-2012 và không yêu cầu chị N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

+ Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đều thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, chấp hành tốt nội quy phiên tòa.

+ Về nội dung: Căn cứ vào Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị N đối với anh Nguyễn Hồng K về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Cho ly hôn mối quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Hồng K.

Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Hồng T, sinh ngày: 06-10-2012 cho chị Nguyễn Thị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ghi nhận chị N không yêu cầu anh K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị N, anh K không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị Nhung phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị N khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Hồng K và yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung khi ly hôn; bị đơn anh K có địa chỉ cư trú tại phường C, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Do đó xác định quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” và Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn anh Nguyễn Hồng K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt, anh Khanh có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Do vậy Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh K theo quy định tại Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh K tự nguyện chung sống có đăng ký kết hôn vào năm 2013 tại Ủy ban nhân dân phường C, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Theo chị N trình bày nguyên nhân ly hôn là do anh K thường xuyên uống rượu, không chăm lo gia đình; chị xác định tình cảm không còn, hôn nhân không hạnh phúc. Anh K xác định vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, anh có nguyện vọng đoàn tụ vợ chồng nhưng vợ anh kiên quyết ly hôn nên anh đồng ý ly hôn với chị N.

[3] Về con chung: Anh chị có 01 con chung tên Nguyễn Hồng Tiên, sinh ngày: 06-10-2012. Khi ly hôn, anh K và chị N đều có yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung. Xét thấy, việc giao con chung cho cha hoặc mẹ nuôi dưỡng và chăm sóc khi ly hôn đều nhằm đến sự phát triển tốt nhất của con về mặt thể chất lẫn tinh thần; anh K hiện đang sống một mình, công việc thường xuyên, thời gian làm việc không ổn định; từ khi anh chị ly thân cho đến nay con chung hiện đang sống với chị N và do chị N trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng, hơn nữa con chung tên Nguyễn Hồng T là nữ. Do đó xét về độ tuổi, giới tính và công việc cần giao con chung cho chị Nguyễn Thị N tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp. Ghi nhận chị N không yêu cầu anh K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Chị N phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[6] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 227; Khoản1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị N đối với anh Nguyễn Hồng K về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Cho ly hôn mối quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị N đối với anh Nguyễn Hồng K.

2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Hồng T, sinh ngày 06-10-2012 cho chị Nguyễn Thị N được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ghi nhận chị N không yêu cầu anh K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung theo quy định pháp luật, không ai được cản trở.

3. Về nợ chung, tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí khởi kiện bà đã nộp theo biên lai thu số 0007226 ngày 02-7-2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Chị N đã nộp đủ tiền án phí.

5. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2019/HNGĐ-ST ngày 23/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:60/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về