Bản án 60/2019/HNGĐ-ST ngày 22/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 60/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 287/2019/TLST-HNGĐ, ngày 18 tháng 10 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2019/QĐXX-ST ngày 05 tháng 11 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 39 ngày 18 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Ngô Văn D, sinh năm 1993; địa chỉ cư trú: Thôn Đ 2, xã Đ, huyện K, thành phố Hải Phòng: Có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Đặng Thị Minh H, sinh năm 1993; hộ khẩu thường trú: Thôn Đ 2, xã Đ, huyện K, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Thôn Q, xã T, huyện K, thành phố Hải Phòng: Vắng mặt nhưng đã được triệu tập hợp lệ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 04/10/2019 và bản tự khai ngày 21/10/2019 anh D trình bày: Anh tự nguyện kết hôn với chị Đặng Thị Minh H thời gian năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện K. Nói chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng thời gian ngắn 06 tháng. Trong quá trình sống chung mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ cuối năm 2018 do phong cách sống không còn phù hợp, vợ chồng nghi ngờ nhau sống không chung thủy, chị H chung sống cùng gia đình anh không hòa thuận. Mặc dù anh và gia đình đã nhiều lần khuyên bảo để vợ chồng trở lại sống đoàn tụ nhưng không thành. Chị H bỏ về mẹ đẻ ở từ cuối năm 2018 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài; Anh xin ly hôn chị H.

Về con chung: Có 01 con là Ngô Duy K, sinh ngày 26/9/2018, hiện đang do chị H nuôi dưỡng. Anh nhất trí để chị H tiếp tục nuôi dưỡng con đến khi đủ 18 tuổi. Anh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng).

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị H vắng mặt, nhưng theo lời trình bày và yêu cầu của anh D. Tòa án đã xác minh và tống đạt trực tiếp giấy triệu tập; thông báo thụ lý vụ án; thông báo về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ; thông báo về phiên họp và hòa giải; thông báo kết quả phiên họp của Tòa án cho trưởng thôn Q, xã T và chính quyền địa phương để giao lại các văn bản tố tụng trên. Chị H đã nhận đầy đủ các văn bản tố tụng trên nhưng không đến Tòa án và Ủy ban nhân dân xã T để trình bày lời khai; tham gia phiên họp và hòa giải; từ chối khai báo, vắng mặt không có lý do chính đáng. Sau đó Tòa án đã tống đạt trực tiếp và hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho trưởng thôn Q và Ủy ban nhân dân xã T để giao lại cho chị H. Chị H vẫn vắng mặt tại phiên tòa.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Nguyên đơn chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Bị đơn không chấp hành đầy đủ nghĩa vụ quy định tại khoản 15, 16 Điều 70, khoản 1 Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét công khai và kết quả công bố công khai tại phiên tòa xét thấy:

1. Về tố tụng: Anh D là nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt nguyên đơn theo quy định của pháp luật. Chị H là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

2. Về quan hệ hôn nhân: Anh D và chị H tự nguyện kết hôn năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện K. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2018 phát sinh mâu thuẫn do phong cách sống không còn phù hợp, vợ chồng nghi ngờ nhau sống không chung thủy, chị H chung sống cùng gia đình anh D không hòa thuận, vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi nhau. Mặc dù gia đình, thôn xóm đã nhiều lần khuyên giải để vợ chồng sống đoàn tụ nhưng không thành. Chị H bỏ về mẹ đẻ ở từ cuối năm 2018 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay anh D xin ly hôn chị H là có cơ sở chấp nhận, nên xử cho anh D được ly hôn chị H là phù hợp. Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Xử cho anh Ngô Văn D được ly hôn chị Đặng Thị Minh H.

3. Về con chung: Anh chị có 01 con là Ngô Duy K, sinh ngày 26/9/2018, hiện đang do chị H nuôi dưỡng. Nay anh D nhất trí để chị H tiếp tục nuôi dưỡng con đến khi đủ 18 tuổi. Anh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng), cần chấp nhận.

Căn cứ vào Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Giao cháu Ngô Duy K, sinh ngày 26/9/2018 cho chị H nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Anh D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng).

4. Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Anh D phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đ án phí dân sự về việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả công bố công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh D là nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn theo quy định của pháp luật.

Chị H là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh D tự nguyện kết hôn với chị H năm 2018 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện K. Đánh giá chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng thời gian ngắn 06 tháng. Song trong thời gian sống chung mâu thuẫn phát sinh từ cuối năm 2018 do phong cách sống không còn phù hợp, vợ chồng nghi ngờ nhau sống không chung thủy, chị H chung sống cùng gia đình anh D không hòa thuận, vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi nhau. Mặc dù đã được gia đình, thôn xóm hòa giải nhiều lần để vợ chồng sống đoàn tụ nhưng không thành. Chị H bỏ về nhà mẹ đẻ ở từ cuối năm 2018 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay anh D xin ly hôn chị H là có cơ sở chấp nhận; nên xử cho anh D được ly hôn chị H là phù hợp.

[3] Về con chung: Anh chị có 01 con là Ngô Duy K, sinh ngày 26/9/2018, đang do chị H nuôi dưỡng. Anh D nhất trí để chị H tiếp tục nuôi dưỡng con đến khi đủ 18 tuổi được chấp nhận. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, anh D nhận có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng), cần chấp nhận.

[4] Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Anh D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Ngô Văn D được ly hôn chị Đặng Thị Minh H.

2. Về con chung: Giao cháu Ngô Duy K, sinh ngày 26/9/2018 cho chị H nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Anh D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng); Thời gian từ tháng 11 năm 2019 hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, anh D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của chị H cho đến khi thi hành án xong khoản tiền cấp dưỡng nuôi con thì anh D còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí: Anh D phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm và 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự về việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số: AA.0012427 ngày 18 tháng 10 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K. Anh D còn phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Trong trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2019/HNGĐ-ST ngày 22/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:60/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Kiến An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về