TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 60/2019/DS-PT NGÀY 04/06/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 04/6/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 81/2019/TLPT-DS ngày 28/3/2019 về việc "Tranh chấp hợp đồng vay tài sản".
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 01/2019/DS-ST ngày 15/02/2019 của Toà án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang có kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 103/2019/QĐ-PT ngày 24/5/2019, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Mai Th, sinh năm 1987. Ủy quyền cho: Anh Lê Văn H, sinh năm 1984 (có mặt) Đều địa chỉ: B – H – Hiệp Hòa – Bắc Giang.
* Bị đơn: Chị Phan Trần Hoàng Y, sinh năm 1988
Địa chỉ: Khu X– Thị trấn T – Hiệp Hòa - Bắc Giang.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1/ Anh Lê Văn H, sinh năm 1984 (có mặt)
Địa chỉ: B – H – Hiệp Hòa – Bắc Giang.
2/ Anh Ngô Quyết Th, sinh năm 1985
Địa chỉ: Khu X– Thị trấn T – Hiệp Hòa - Bắc Giang.
3/ Chị Chu Thị Minh Ng, sinh năm 1986
Địa chỉ: D – Đ – Hiệp Hòa – Bắc Giang (chị Y, anh Th, chị Ng có đơn xin xét xử vắng mặt)
* Người kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Mai Th - Là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Mai Th và đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, đồng thời là người có nghĩa vụ liên quan là anh Lê Văn H trình bày: Do chị Th và chị Y có mối quan hệ đồng nghiệp, dạy cùng trường nên chị Th đã cho chị Y vay tiền nhiều lần (04 lần), cụ thể như sau: ngày 25/5/2013 cho vay 100.000.000 đồng; ngày 21/3/2014 cho vay 280.000.000 đồng; ngày 06/12/2014 cho vay 300.000.000 đồng và ngày 12/12/2014 cho vay 110.000.000 đồng. Tổng số tiền cho vay là 790.000.000 đồng. Mỗi lần vay chị Y đều ký vào giấy vay tiền, ghi rõ thời hạn thanh toán, hầu hết là vay ngắn hạn (từ 25 ngày đến 6 tháng). Khi vay, chị Y thế chấp quyền sử dụng thửa đất số 46 tờ bản đồ số 3, địa chỉ tại thôn D, xã Đ theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BG156272 do UBND huyện Hiệp Hòa cấp ngày 26/10/2011 mang tên Chu Thị Minh Ng. Hai bên có thỏa thuận miệng về lãi suất và chị Y có trình bày mục đích vay để cho chồng đi học, xây dựng, mua sắm đồ dùng và lo công việc gia đình. Các lần vay anh Th (chồng chị Y) đều biết và để vợ đại diện đứng ra vay. Đến năm 2015, chị Y đã trả được tổng số tiền là 180.000.000đ, hai bên chốt lại còn nợ 610.000.000 đồng. Kể từ khi hai bên chốt nợ đến nay, chị Y còn trả lãi được nhiều lần với tổng số tiền là 30.000.000đ. Nay chị Th yêu cầu chị Y và anh Th trả số tiền gốc là 610.000.000 đồng và tiền lãi tính từ lần vay cuối cùng là 12/12/2014 đến nay theo mức lãi do pháp luật quy định.
Bị đơn là chị Phan Trần Hoàng Y thừa nhận các lần vay tiền của chị Th với tổng số tiền như chị Th đã trình bày. Việc vay tiền do một mình chị Y thực hiện với mục đích kinh doanh riêng, không phục vụ công việc gia đình, chị không nói cho chồng là anh Th biết. Khi vay hai bên thỏa thuận miệng lãi suất theo ngày (1.500đ/triệu/ngày). Tính đến cuối năm 2015, ngoài lãi suất đã trả thì chị đã trả cho chị Th được 180.000.000đ tiền gốc. Hai bên chốt số nợ gốc còn lại là 610.000.000đ. Cho đến nay chị còn trả cho vợ chồng chị Th nhiều lần được tổng cộng 113.000.000đ. Vì vậy, nay chị chỉ chấp nhận trả chị Th số tiền gốc còn lại là 497.000.000đ và xin trả dần, chị không chấp nhận trả lãi vì trước đó đã trả lãi suất cao (lãi ngày) cho chị Th.
Tại Bản tự khai ngày 15/8/2018, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Ngô Quyết Th trình bày: anh không biết về việc vợ anh là chị Phan Trần Hoàng Y vay tiền của chị Th. Anh không được sử dụng số tiền vay này, chị Y cũng không chi tiêu số tiền vay cho công việc gia đình. Anh cũng không được chị Th cho biết về việc chị Y vay tiền của chị Th. Vì vậy anh không đồng ý liên đới cùng chị Y trả nợ cho chị Th.
Tại bản tự khai ngày 15/8/2018, chị Chu Thị Minh Ng trình bày: Thửa đất số 46 tờ bản đồ số 3, địa chỉ tại thôn D, xã Đ, huyện Hiệp Hòa thuộc quyền sử dụng của chị theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BG156272 ngày 26/10/2011 của UBND huyện Hiệp Hòa. Trước đó giữa chị và chị Y có ý định chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho nhau, chị có đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này cho chị Y. Tuy nhiên sau đó hai bên không tiến hành mua bán nữa nhưng chị Y chưa trả lại cho chị. Chị không biết việc chị Y thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của chị cho chị Th để vay tiền nên chị Yêu cầu chị Th trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị.
Với nội dung nêu trên, bản án dân sự sơ thẩm số: 01/2019/DS-ST ngày 15/02/2019 của Toà án nhân dân huyện Hiệp Hòa đã quyết định:
Áp dụng các Điều 26, 147, 227, 228, 271, 273
- Bộ luật tố tụng dân sự (2015); các Điều 281, 471, 474, 476
– Bộ luật dân sự (2005) và Điều 18, 26 Nghị quyết 326/2016 UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016, xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Mai Th: Buộc Chị Phan Trần Hoàng Y phải có nghĩa vụ trả cho vợ chồng chị Nguyễn Thị Mai Th – anh Lê Văn H số tiền gốc là 610.000.000đ và tiền lãi suất là 141.257.500đ. Tổng cộng cả tiền gốc và tiền lãi suất là 751.257.500đ (bảy trăm năm mươi mốt triệu hai trăm năm mươi bảy nghìn năm trăm đồng).
Chị Nguyễn Thị Mai Th hoàn trả cho chị Phan Trần Hoàng Y Giấy chứng nhận QSD đất số BG156272 ngày 26/10/2011 của UBND huyện Hiệp Hòa mang tên chị Chu Thị Minh Ng.
Bác yêu cầu của chị Nguyễn Thị Mai Th về việc yêu cầu anh Ngô Quyết Th liên đới trả nợ cùng chị Phan Trần Hoàng Y.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền yêu cầu thi hành án, lãi suất chậm thi hành án và quyền kháng cáo cho các bên đương sự.
Ngày 21/02/2019, chị Nguyễn Thị Mai Th nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm số 01/2019/DS-ST ngày 15/02/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang; đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xử buộc ông Ngô Quyết Th có trách nhiệm liên đới trả nợ cùng chị Phan Trần Hoàng Y. Yêu cầu chị Chu Thị Minh Ng liên đới trong việc trả nợ Tại phiên toà phúc thẩm, anh Lê Văn H là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, và đơn kháng cáo.
Hội đồng xét xử công bố lời khai của các đương sự vắng mặt tại phiên tòa.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đối với nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật. Về nội dung: Áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, để không chấp nhận kháng cáo của chị Nguyễn Thị Mai Th, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến tranh luận tại phiên toà. Sau khi nghe ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Xét kháng cáo của chị Nguyễn Thị Mai Th, Hội đồng xét xử thấy:
[1.1] Đối với kháng cáo về việc yêu cầu anh Ngô Quyết Th phải liên đới trả nợ cùng chị Y: Tại phiên tòa phúc thẩm anh Lê Văn H là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn không xuất trình thêm chứng cứ gì mới. Chị Th là nguyên đơn khởi kiện về 4 hợp đồng vay tài sản (tiền) đối với chị Phan Trần Hoàng Y, do chị Y một mình kí nhận và chị Y đã thừa nhận số tiền vay nợ theo khởi kiện của nguyên đơn. Nội dung này các bên đương sự không có ai kháng cáo. Chị Y khai chị vay tiền của chị Th thì anh Th chồng chị không biết, chị kinh doanh trên mạng và bị lừa hết tiền. Anh Th khai không biết chị Y vợ anh vay tiền của chị Th, và chị Y không dùng số tiền vay vào nhu cầu thiết yếu của gia đình, nên anh không chịu trách nhiệm. Phía nguyên đơn có khai anh Th có biết việc chị Y vay tiền của nguyên đơn, nhưng không có tài liệu chứng cứ nào để chứng minh về việc anh Th biết, và việc chị Y vay tiền để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình chị Y. Theo quy định tại Điều 37 Luật Hôn nhân gia đình thì việc chị Y một mình kí giấy vay nợ chị Th, để kinh doanh trên mạng và bị lừa hết tiền là hành vi kinh doanh trái pháp luật. Vì vậy, anh Th chồng chị Y không phải chịu trách nhiệm. Nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo này của chị Th về nội dung này.
[1.2] Đối với nội dung kháng cáo về việc yêu cầu chị Chu Thị Minh Ng liên đới trong việc trả nợ thì thấy, tại Tòa án cấp sơ thẩm chị Th là nguyên đơn không có yêu cầu giải quyết về nội dung này, nên Tòa án cấp phúc thẩm không có quyền giải quyết theo quy định tại Điều 17 Bộ luật tố tụng dân sự “Bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm”.
[2] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; không chấp nhận kháng cáo của chị Nguyễn Thị Mai Th, giữ nguyên bản án sơ thẩm Áp dụng các Điều 26; Điều 147; Điều 148; Điều 227; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 281; Điều 471; Điều 474; Điều 476 Bộ luật dân sự 2005; Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 18; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Mai Th: Buộc Chị Phan Trần Hoàng Y phải có nghĩa vụ trả cho vợ chồng chị Nguyễn Thị Mai Th – anh Lê Văn H số tiền gốc là 610.000.000đ và tiền lãi suất là 141.257.500đ. Tổng cộng cả tiền gốc và tiền lãi suất là 751.257.500đ (bảy trăm năm mươi mốt triệu hai trăm năm mươi bảy nghìn năm trăm đồng).
Chị Nguyễn Thị Mai Th hoàn trả cho chị Phan Trần Hoàng Y Giấy chứng nhận QSD đất số BG156272 ngày 26/10/2011 của UBND huyện Hiệp Hòa mang tên chị Chu Thị Minh Ng.
Bác yêu cầu của chị Nguyễn Thị Mai Th về việc yêu cầu anh Ngô Quyết Th liên đới trả nợ cùng chị Phan Trần Hoàng Y.
[2]. Án phí:
* Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phan Trần Hoàng Y phải chịu 34.050.300đ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
* Về án phí dân sự phúc thẩm: Chị Nguyễn Thị Mai Th phải chịu 300.000 đồng tiền án phí phúc thẩm nhưng được trừ số tiền 300.000 đồng chị Th đã nộp tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số: AA/2017/0000998 ngày 21/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Xác nhận chị Th đã nộp đủ án phí phúc thẩm.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 60/2019/DS-PT ngày 04/06/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 60/2019/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 04/06/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về