TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 60/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ LY HÔN GIỮA ÔNG T VÀ BÀ T
Ngày 29 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 103/2018/TLST - HNGĐ ngày 04 tháng 7 năm 2018 về "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2018/QĐXX- ST ngày 05 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Cao Đăng T, sinh năm 1958. (có mặt)
Địa chỉ: Thôn Đ, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình.
2. Bị đơn: Bà Tăng Thị T, sinh năm 1958. (vắng mặt)
Hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình.
Địa chỉ tạm trú: HH2, khu đô thị D, phường Y, quận H, thành phố Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, nguyên đơn ông Cao Đăng T trình bày:
Về hôn nhân: Ông và bà Tăng Thị T tự nguyện tìm hiểu chung sống với nhau từ 16/6/1983 không có đăng ký kết hôn và sinh sống tại xã V, huyện K. Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 1993 thì vợ chồng lên huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên làm ăn sinh sống, đến năm 1997 thì trở về địa phương xã V sinh sống, trong thời gian sinh sống ông và bà T có nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do vợ chồng bất đồng nhau về quan điểm sống, vì các con còn nhỏ nên ông cố gắng khắc phục để vợ chồng nuôi dậy con chung. Mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng, hai bên không khắc phục được, ông và bà T sống ly thân từ cuối năm 2002 đến nay. Nay ông xác định tình cảm vợ chồng không còn, ông đề nghị Toà án nhân dân huyện Kiến Xương giải quyết cho ông được ly hôn bà T.
Về con chung: Ông và bà Tăng Thị T có 02 con chung là Cao Đăng C, sinh năm 1984 và Cao Đăng M, sinh năm 1985, hiện 02 con chung đã trưởng thành tự lập về kinh tế và đã có gia đình riêng nên không đặt ra yêu cầu giải quyết.
Về chia tài sản chung: Ông và bà Tăng Thị T không có, không vay ai và cho ai vay bất cứ tài sản gì.
Tại bản tự khai ngày 05/7/2018 của bà Tăng Thị T có chứng thực phường Y, quận H, thành phố Hà Nội trình bày:
Về hôn nhân: Bà và ông Cao Đăng T tự nguyện kết hôn không có đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính hai vợ chồng không hợp nhau. Vợ chồng đã sống ly thân mỗi người một nơi, nay xác định vợ chồng không thể đoàn tụ được nữa bà nhất trí ly hôn với ông T.
Về con chung: Bà và ông Cao Đăng T có 02 con chung là Cao Đăng C, sinh năm 1984 và Cao Đăng M, sinh năm 1985, hiện 02 con chung đã trưởng thành tự lập về kinh tế và đã có gia đình riêng.
Về tài sản chung: Bà và ông Cao Đăng T không có tài sản chung.
Ngoài ra bà Tăng Thị T có đơn đề nghị giải quyết ly hôn vắng mặt có chứng thực phường Y, quận H, thành phố Hà Nội gửi Tòa án.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình giám sát sự tuân theo pháp luật tại phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành thụ lý, thu thập chứng cứ và xét xử vụ án theo đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định, người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự;
Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a mục 3 Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về thi hành luật hôn nhân và gia đình và Mục 1 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT - TANDTC - VKSNDTC - BTP. Về hôn nhân, đề nghị Hội đồng xét xử cho ông Tuyên được ly hôn bà T. Về nuôi con chung và tài sản chung không xem xét giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Cao Đăng T khởi kiện yêu cầu được ly hôn bà Tăng Thị T, căn cứ khoản 1, Điều 28; khoản 1, Điều 35; khoản 3, Điều 36 và điểm a, khoản 1, Điều 39; Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Trong giai
đoạn giải quyết vụ án bà Tăng Thị T có đơn lựa chọn Tòa án huyện Kiến Xương để giải quyết và bà có đơn xin giải quyết vắng mặt có chứng thực của phường Y, quận H, thành phố Hà Nội, vì vậy Tòa án xét xử vắng mặt bà T theo quy định tại khoản 1, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về hôn nhân: Ông Cao Đăng T chung sống với bà Tăng Thị T không có đăng ký kết hôn từ năm 1983 đến nay, nhưng đến khi có Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 và Luật hôn nhân và gia đình 2000 có hiệu lực, ông T và bà T không đăng ký kết hôn theo quy định luật hôn nhân và gia đình. Theo quy định tại điểm a, Mục 3, Nghị quyết số 35/2000/QH 10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về thi hành luật hôn nhân và gia đình và Mục 1 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT - TANDTC - VKSNDTC - BTP thì quan hệ hôn nhân của Tuyên và bà T được xác lập trước khi luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực thì không bắt buộc phải đăng ký kết hôn mà chỉ khuyến khích kết hôn, việc không đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của ông T và bà T vẫn được công nhận là hợp pháp. Sau khi chung sống, vợ chồng sống hòa thuận đến cuối năm 2002 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do vợ chồng tình tính không hợp nhau và sống ly thân từ đó đến nay. Hội đồng xét xử thấy: Ông T, bà T mâu thuẫn căng thẳng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn bà T, bà T nhất trí ly hôn. Vì vậy, cần xử cho ông T được ly hôn bà T là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về nuôi con chung: Ông Cao Đăng T và bà Tăng Thị T có 02 con chung là Cao Đăng C, sinh năm 1984 và Cao Đăng M, sinh năm 1985, hiện 02 con chung đã trưởng thành tự lập về kinh tế và đã có gia đình riêng nên HĐXX không xem xét giải quyết.
[4] Về chia tài sản: Ông Cao Đăng T và bà Tăng Thị T không có, không vay ai và cho ai vay bất cứ tài sản gì nên HĐXX không xem xét giải quyết.
[5] Về án phí: Ông Cao Đăng T phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1, Điều 28; khoản 1, Điều 35; khoản 3, Điều 36; điểm a, khoản 1, Điều 39; Điều 147; khoản 1, Điều 228 Điều 235; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Điểm a, khoản 5; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016 /UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc Hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhân yêu cầu khởi kiện ly hôn của ông Cao Đăng T đối với bà Tăng Thị T.
1.1 Về hôn nhân: Xử cho ông Cao Đăng T được ly hôn bà Tăng Thị T.
1.2. Về nuôi con chung: Ông Cao Đăng T và bà Tăng Thị T có 02 con chung là Cao Đăng C, sinh năm 1984 và Cao Đăng M, sinh năm 1985, hiện 02 con chung đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết.
1.3. Về chia tài sản: Không xem xét giải quyết.
2. Về án phí: Ông Cao Đăng T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng, ông T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số số 0001068 ngày 04/7/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiến xương, tỉnh Thái Bình, ông T đã nộp đủ tiền án phí.
3. Về quyền kháng cáo: Ông Cao Đăng T có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà Tăng Thị T vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 60/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 về ly hôn giữa ông T và bà T
Số hiệu: | 60/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về