Bản án 600/2020/HNGĐ-ST ngày 23/12/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHỤNG HIỆP - TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 600/2020/HNGĐ-ST NGÀY 23/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 23 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 505/2020/TLST-HNGĐ, ngày 26 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 185/2020/QĐXXST-HN, ngày 27 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên toà số 107/2020/QĐST-HN, ngày 14 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị Bạch C, sinh năm 1979.

Địa chỉ: ấp A1, xã L, huyện H, tỉnh Hậu Giang.

2. Bị đơn: Phạm Văn K, sinh năm 1976.

Địa chỉ: ấp A1, xã L, huyện H, tỉnh Hậu Giang. Chỗ ở: ấp ỹ B, xã T, huyện H, tỉnh Hậu Giang. Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và các lời khai trong quá trình giải quyết, nguyên đơn Nguyễn Thị Bạch C (sau đây gọi chị C) trình bày: giữa chị và bị đơn Phạm Văn K (sau đây gọi anh K) qua tìm hiểu nhau, tự nguyện quyết định đi đến hôn nhân vào năm 2002, có đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống đến năm 2010 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do chồng chị không lo làm ăn để lo cho gia đình mà hay chơi bời gây nợ nần, vì thương các con nên chị cố gắng nhẫn nhịn, chịu đựng, ra sức khuyên ngăn nhưng chồng chị không thay đổi, từ đó thường cãi vã nhau trong cuộc sống, đã nhiều lần hoà giải hàn gắn tình cảm nhưng không thành nên đã sống ly thân từ tháng 09 năm 2020. Do cuộc sống chung không hạnh phúc, chị C khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

-Về hôn nhân: xin ly hôn với anh K.

-Về con chung: có hai người con chung tên Phạm Nguyễn Gia Kh (nam), sinh ngày 11 tháng 12 năm 2005 và cháu Phạm Kim N (nữ), sinh ngày 12 tháng 5 năm 2015.

Từ khi ly thân đến nay, con sống với chị C, nay ly hôn, chị yêu cầu được nuôi hai con chung, chưa yêu cầu anh K cấp dưỡng.

-Về nợ và tài sản chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Phạm Văn K vắng mặt nên không có lời trình bày.

Tại bản tự khai ngày 11 tháng 11 năm 2020, cháu Phạm Nguyễn Gia Kh trình bày (có sự chứng kiến của chị C): từ trước đến nay cháu sống với mẹ. Khi cha, mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng được sống với mẹ.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: về thủ tục tố tụng: Tòa án, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn: cho ly hôn; giao con chung cho nguyên đơn nuôi dưỡng; bị đơn chưa phải cấp dưỡng; về nợ và tài sản chung, không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp ly hôn được qui định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.

[2] Về thủ tục tố tụng: anh Phạm Văn K được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai không lý do nhưng cũng không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử mở phiên tòa xét xử vắng mặt đối với anh K.

[3] Xét về quan hệ hôn nhân: chị C và anh K qua tìm hiểu nhau, tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn ngày 26 tháng 11 năm 2002 tại Ủy ban nhân xã Tân Long, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp và được pháp luật thừa nhận.

[4] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị C: chị và anh K trong thời gian chung sống có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo chị C trình bày do anh K không quan tâm, lo lắng đến gia đình là đã vi phạm nghĩa vụ vợ chồng, mặt khác, vợ chồng bất đồng quan điểm sống nhưng không có giải pháp khắc phục để hoà giải, hàn gắn tình cảm mà đã sống ly thân; xét thấy thời gian ly thân thì tự ai người đó sống, không ai quan tâm, lo lắng cho ai. Trong quá trình giải quyết, Tòa án tạo điều kiện để hòa giải đoàn tụ nhưng anh K không có mặt, chứng tỏ rằng anh không còn quan tâm đến cuộc hôn nhân này. Trong khi tại phiên tòa, chị C xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh K và cương quyết xin ly hôn; từ đó thấy rằng hôn nhân giữa anh, chị đã thật sự lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được; căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình có cơ sở chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị C [5] Về con chung: có hai người con chung, xét từ khi ly thân đến nay thì cả hai người con chung đều sống với chị C, chị có yêu cầu được nuôi cả hai cháu. Cháu Kh có nguyện vọng được sống với mẹ, xét các cháu có cuộc sống ổn định với chị C, nhằm tránh gây xáo trộn đời sống của các cháu, cần tiếp tục giao cả hai cháu cho chị C nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi hoặc khi chị C, anh K có yêu cầu khác.

[6] Về nghĩa vụ cấp dưỡng: chị C chưa yêu cầu cấp dưỡng nên không đặt ra xem xét.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho anh K mà không ai có quyền cản trở.

[7] Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu nên không xem xét.

[8] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: nguyên đơn phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227 Bộ Luật Tố tụng dân sự. Các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Bạch C và anh Phạm Văn K.

2. Về nuôi con chung: Giao các cháu Phạm Nguyễn Gia Kh (nam), sinh ngày 11 tháng 12 năm 2005 và cháu Phạm Kim N (nữ), sinh ngày 12 tháng 5 năm 2015 cho chị Nguyễn Thị Bạch C được tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc khi anh K, chị C có yêu cầu khác.

Anh Phạm Văn K chưa phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho anh Phạm Văn K mà không ai có quyền cản trở.

3. Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu, không xem xét.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: chị Nguyễn Thị Bạch C phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ từ 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0005944, ngày 26 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang thành án phí, không phải nộp thêm.

Trường hợp quyết định này được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 600/2020/HNGĐ-ST ngày 23/12/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:600/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phụng Hiệp - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về