Bản án 59A/2019/HS-ST ngày 24/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 59A/2019/HS-ST NGÀY 24/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 24 tháng 7 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 59/2019/TLST-HS ngày 03/7/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2019/QĐXXST-HS ngày 10/7/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H, sinh ngày 20/02/1991 tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: Số nhà a, khu x, thị trấn D, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn H1 (đã chết) và bà Phạm Thị T (sinh năm 1969); Có vợ là Vũ Thị N, sinh năm 1991; Có 1 con: Nguyễn Hải A, sinh năm 2014; Tiền án: 01: Bản án số 60/2014/HSST ngày 07/10/2014 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xử phạt Hải 07 năm 3 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy", bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/3/2019, đã nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ và phạt sung công quỹ nhà nước 200.000đ ngày 13/11/2014; Bị tạm giữ từ ngày 16/5/2019 đến ngày 19/5/2019 chuyển tạm giam đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Thái Thụy. (Có mặt)

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Vũ Thị N, sinh năm 1991; Địa chỉ: Số nhà a, khu x, thị trấn D, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

- Người chứng kiến:

+ Anh Lê Công H2, sinh năm 1985

+ Ông Vũ Văn S, sinh năm 1960

Đều trú tại: Thôn Đ, xã X, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(Chị N có đơn xin vắng mặt, anh H2 và ông S vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 16/5/2019, Nguyễn Văn H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave anpha màu đỏ đã cũ biển kiểm soát 16K3-8369 đến khu vực gần nghĩa trang thôn Đ, xã X, huyện Thái Thụy với mục đích mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Tại đây, H gặp và mua của người nam giới, khoảng 30 tuổi (không biết tên và địa chỉ) 03 gói ma túy với giá 400.000đ, H cất ma túy vào túi quần bên trái phía trước đang mặc rồi điều khiển xe về nhà. Khi H đi đến gần trường tiểu học thôn Đ, xã X thì bị tổ công tác Đồn Công an bảo vệ trung tâm điện lực Thái Bình và Công an huyện Thái Thụy phát hiện, yêu cầu H về trụ sở Ủy ban nhân dân xã X để kiểm tra. Trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương và những người chứng kiến là anh Lê Công H2 và ông Vũ Văn S, công an đã tiến hành kiểm tra người H và thu giữ 03 gói bên ngoài gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong đều chứa chất bột màu trắng dạng cục, H khai đó là ma túy loại Heroine vừa mua để sử dụng cho bản thân. Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong 03 gói ma túy (Mẫu số A1) đưa đi giám định và quản lý xe mô tô của H. Cùng ngày cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thái Thụy khám xét khẩn cấp nơi ở của H nhưng không thu giữ gì.

Kết luận giám định số 161/KLGĐ-PC09 ngày 17/5/2019 của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu số A1 ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,2631gam (Không phẩy hai nghìn sáu trăm ba mươi mốt gam). Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận giám định nêu trên.

Bản cáo trạng số 62/CT-VKSTT ngày 02/7/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 năm 3 tháng tù đến 01 năm 9 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 16/5/2019, không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,2195 gam Heroine trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 161/KLGĐ do phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình trả; áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave anpha, màu đỏ, biển kiểm soát 16K3-8369.

Bị cáo phải nộp án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận gì và nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi phạm tội là sai trái và rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]  Về hành vi và quyết định tố tụng của các Cơ quan tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2]  Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của chính bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố phù hợp với lời khai của những người chứng kiến anh Lê Công H2, ông Vũ Văn S. Ngoài ra còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Thái Thụy lập hồi 16 giờ 30 phút ngày 16/5/2019; Biên bản khám xét ngày 16/5/2019; Các biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thái Thụy lập ngày 16/5/2019; Kết luận giám định số 161/KLGĐ-PC09 ngày 17/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3]  Từ những căn cứ nêu trên có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo Nguyễn Văn H đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy đã truy tố.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy:

1.  Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[4]  Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của nhà nước, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội, đi ngược lại với cuộc đấu tranh bài trừ tệ nạn ma túy của nhà nước. Tệ nạn ma túy còn là mầm mống phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo đã trên 18 tuổi, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Bản thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết được tác hại rất lớn của ma túy, nhận thức được việc tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn bất chấp mua về và cất giữ trong người để sử dụng cho bản thân với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo là người có một tiền án về các tội ma túy nhưng không lấy đó làm bài học để rèn luyện và cải tạo bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, việc đưa bị cáo ra xét xử là đúng quy định của pháp luật hình sự và cần phải áp dụng một mức án nghiêm minh, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục, răn đe bị cáo và góp phần vào công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[5] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo phạm tội lần này khi Bản án số 60/2014/HSST ngày 07/10/2014 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy chưa được xóa án tích nên phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "Tái phạm" quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6]  Bị cáo mua ma túy với mục đích sử dụng cho bản thân, không có mục đích bán kiếm lời. Bản thân bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng gì có giá trị do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7]  Về xử lý vật chứng: Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: 0,2631gam ma túy loại Heroine sau khi lấy mẫu giám định còn lại 0,2195 gam trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 161/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình là vật cấm tàng trữ, lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy. 01 chiếc mô tô nhãn hiệu Wave Anpha, màu đỏ, biển kiểm soát 16K3-8369 đã cũ, xét thấy đây là tài sản chung của vợ chồng bị cáo, vợ của bị cáo là chị Vũ Thị N không biết việc bị cáo dùng xe đi mua ma túy nên cần trả lại cho bị cáo.

[8]  Về nguồn gốc số ma túy: H khai là mua của một người đàn ông khoảng 30 tuổi, không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra, xử lý.

[9]  Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; Điều 106, 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án;

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù giam, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 16/5/2019.

2.  Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 0,2195 gam Heroine hoàn trả sau giám định và bao gói trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 161/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

Trả lại cho bị cáo 01 chiếc mô tô nhãn hiệu Wave Anpha, màu đỏ, biển kiểm soát 16K3-8369 đã cũ.

(Các tài sản đồ vật trên có đặc điểm ghi trong biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thái Thụy và Chi cục thi hành án dân sự huyện Thái Thụy ngày 03/7/2018).

3.  Về án phí:

Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4.  Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 24/7/2019. Chị Vũ Thị N có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59A/2019/HS-ST ngày 24/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:59A/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về