TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 596/2020/HS-ST NGÀY 23/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 576/2020/TLST-HS ngày 27/11/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 805/2020/QĐXXST-HS ngày 11/12/2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Văn C. Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 02 tháng 9 năm 1987. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Khối Q, phường V, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Trình độ văn hoá: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn Q, sinh năm 1960 và con bà: Lê Thị Q (chết); Vợ, con: Chưa có. Tiền án, Tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/10/2020 đến nay hiện tang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 31/10/2020 do có nhu cầu sử dụng ma túy đá nên Trần Văn C rủ thêm một người bạn gái tên H (C không biết rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể) cùng sử dụng ma túy, H đồng ý. Sau đó C thuê xe máy lai đi sang ngã ba Gia Lách thuộc thị trấn X, huyện N, tỉnh H rồi C xuống xe gặp một nam thanh niên tên là A, C không biết rõ lai lịch, địa chỉ của A ở đâu rồi hỏi A "Có ma túy bán không", A trả lời có, C đưa cho Anh số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), Anh đưa cho C một gói được gói bằng bao Poyetylen màu trắng, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy đá. Mua được ma túy xong, C bỏ ma túy đá vào miệng ngậm lại cất dấu va thuê xe máy lai đi về thành phố Vinh. Đến khoảng 14 giờ 10 phút cùng ngày Trần Văn C đi đến số 2, đường Đ thuộc khối T, phường H, thành phố Vinh thì C xuống xe chờ Hồng đến để tìm nơi sử dụng ma túy. Đúng lúc này Tổ công tác Công an phường H, thành phố Vinh đang làm nhiệm vụ tại khu vực này thấy C có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra hành chính đối với C nhưng không thu giữ vật chứng gì, Tổ công tác yêu cầu C về trụ sở Công an để tiếp tục kiểm tra. Tại Công an phường H, thành phố Vinh, C móc từ trong miệng ra một gói được gói bằng bao Poytyetylen màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy đá giao nộp nên Công an phường H, thành phố Vinh lập Biên bản niêm phong vật chứng và Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Văn C.
Ngày 31/10/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và ra quyết định trưng cầu giám định ngày 01/11/2020. Tại Kết luận giám định số 1474/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 04/11/2020 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của Trần Văn C gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Số chất tinh thể màu trắng thu giữ của Trần Văn C có khối lượng là 0,225 gam (không phẩy hai trăm hai mươi lăm gam).
Vật chứng của vụ án: 01 (một) gói ma túy (Methamphetamine) có khối lượng 0,225 gam, sau khi lấy mẫu giám định còn 0,125 gam hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
Cáo trạng số 605/CT-VKS-TPV ngày 24/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh truy tố để xét xử Trần Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự 2015.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh phát biểu quan điểm về vụ án, giữ nguyên tội danh đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với Trần Văn C. Đề nghị xử phạt Trần Văn C từ 12 (Mười hai) tháng tù đến 15 (Mười lăm) tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về xử lý vật chứng: áp dụng điều 106 BLTTHS, điều 47 Bộ luật hình sự tịch thu tiêu huỷ số ma túy thu giữ của bị cáo. Áp dụng điều 136 BLTTHS, điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định buộc Trần Văn C phải chịu 200.000đ tiền án phí HSST.
Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý với nội dung bản cáo trạng, luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh và không tranh luận gì. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
[2]. Về hành vi của bị cáo: Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với Biên bản bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 14 giờ 10 phút, ngày 31/10/2020, tại khu vực số 2, đường Đ thuộc khối T, phường H, thành phố Vinh Trần Văn C có hành vi cất giấu trái phép 0,225 gam (không phẩy hai trăm hai mươi lăm gam) Ma túy (Methamphetamine) nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[3]. Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi của bị cáo phạm vào loại tội nghiêm trọng, hành vi nguy hiểm cho xã hội, vi phạm quy định về quản lý của Nhà nước về ma túy. Ma túy là chất gây nghiện độc hại và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi cất dấu ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng do thiếu bản lĩnh, không làm chủ được bản thân nên đã sa vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Xét tình tiết giảm nhẹ thấy rằng trong quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy khi quyết định hình phạt nên xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo như mức đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, cần chấp nhận.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo lao động tự do thu nhập không ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
[5] Trong vụ án này theo lời khai của Trần Văn C thì người phụ nữ tên H mà bị cáo rủ đi sử dụng ma túy và người tên A đã bán ma túy cho bị cáo nhưng bị cáo không rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể cuẩ H và A ở đâu nên cơ quan cảnh sát điều tra không có cơ sở để xử lý.
[6]. Về xử lý vật chứng: Số ma túy thu giữ của bị cáo là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.
[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự:
- Xử phạt bị cáo Trần Văn C 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 31/10/2020.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì thư niêm phong dán kín, trong chứa ma túy (Methamphetamine), ghi thu giữ vật chứng của Trần Văn C.
(Vật chứng trên hiện có tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh theo phiếu nhập kho vật chứng số NK 2021/83 ngày 22/12/2020).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Trần Văn C phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./
Bản án 596/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 596/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về