Bản án 594/2018/HNGĐ-ST ngày 14/05/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 594/2018/HNGĐ-ST NGÀY 14/05/2018 VỀ LY HÔN

Trong ngày 14 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý 439/2016/TLST-HNGĐ, ngày 08 tháng 11 năm 2016 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 1468/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 4 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 2960/2018/QQĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 4 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị H, sinh năm 1970 (vắng mặt)

Địa chỉ: 71/26A Đường D, Phường A, quận B, Thành Phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Ông Stanley Ray S, sinh năm 1945 (vắng mặt) Quốc tịch: Hoa Kỳ

Địa chỉ: Victoria Ventura CA 93003, USA.

Bà Trần Thị H đã có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 21/9/2016 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà Trần Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Stanley Ray S kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 3097, Quyển số 16 ngày 23/8/2001. Sau khi kết hôn, bà và ông Stanley Ray S chung sống hạnh phúc đến năm 2010 thì ông Stanley Ray S quay trở về Hoa Kỳ. Từ ngày ông Stanley Ray S về Hoa Kỳ cho tới nay, hai bên không có bất kỳ liên lạc gì với nhau, mặc dù bà đã nhiều lần cố gắng liên lạc. Do xa cách nhau trong một thời gian dài nên tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt vì vậy bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Stanley Ray S. Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không có. Vì bận việc, bà yêu cầu được vắng mặt cho đến khi kết thúc vụ án.

Bị đơn là ông Stanley Ray S, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã triệu tập hợp lệ: Tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo ngày, giờ và địa điểm mở phiên họp hòa giải, phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án thông qua thủ tục ủy thác tư pháp đến cơ quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ theo địa chỉ của bị đơn do nguyên đơn cung cấp. Đồng thời, yêu cầu ông Stanley Ray S có văn bản gửi Tòa án trình bày ý kiến về việc bà Trần Thị H khởi kiện yêu cầu ly hôn (theo văn bản ủy thác tư pháp số 1296/TTTPDS-TA ngày 02/12/2016). Bộ Tư pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có công văn đề nghị Bộ Ngoại giao thực hiện các công việc cần thiết để thực hiện ủy thác tư pháp theo quy định. Theo đó, Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại San Francisco, Hoa Kỳ đã gửi thông báo cho bị đơn, đồng thời niêm yết hồ sơ tại trụ sở Tổng lãnh sự quán. Nhưng cho đến nay, ông Stanley Ray S vẫn không có văn bản trả lời cho Tòa án.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt, Hội đồng xét xửvẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan  điểm về vụ án: Về tố tụng, trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo trình tự tố tụng của Bộ luật tố tụng dân sự quy định về địa vị tố tụng và đảm bảo quyền lợi cho các đương sự. Về nội dung, Kiểm sát viên phân tích yêu cầu của nguyên đơn xin ly hôn bị đơn là phù hợp và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Xét yêu cầu của nguyên đơn Trần Thị H, Hội đồng xét xử nhận thấy bà H và ông Stanley Ray S kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận kết hôn. Vì vậy căn cứ vào Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đây là hôn nhân hợp pháp, khi một trong các bên có yêu cầu ly hôn, Tòa án xem xét, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Bị đơn Stanley Ray S mang quốc tịch Hoa Kỳ, hiện đang cư trú tại Hoa Kỳ nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35 và khoản 1 Điều 37 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về việc xét xử vắng mặt đương sự trong vụ án:

Nguyên đơn có đơn xin giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, yêu cầu cung cấp bản khai; thông báo ngày, giờ, địa điểm xét xử nhưng đến thời điểm xét xử Tòa án vẫn không nhận được phản hồi của bị đơn. Vì vậy căn cứ quy định tại Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; khoản 5Điều 477 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[3] Xét yêu cầu của bà Trần Thị H yêu cầu ly hôn ông Stanley Ray S, Hội đồng xét xử xét thấy: Qua lời trình bày của bà Trần Thị H (bà H cam kết chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời khai của bà) thì thực tế sau khi kết hôn bà H và ông Stanley Ray S chỉ chung sống hạnh phúc trong một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Từ tháng 6 năm 2010, ông Stanley Ray S quay trở về Hoa Kỳ và từ thời điểm đó đến nay hai bên không còn liên lạc với nhau nữa. Hiện nay bà H và ông Stanley Ray S đang sinh sống ở hai nước khác nhau nên khả năng đoàn tụ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy bà H yêu cầu ly hôn với ông Stanley Ray S là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho bà H ly hôn với ông Stanley Ray S là phù hợp với thực tế nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con chung, tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung: Bà Trần Thị Hkhai không có, Tòa án không xem xét.

[4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 200.000 đồng, bà H chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 5 Điều 477, khoản 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;Căn cứ vào Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 121 và Điều 127 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Pháp lệnh 10/2009/UBTVQH12 ngày 27 tháng 02 năm 2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án,

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị H được ly hôn với ông Stanley Ray S.

Giấy chứng nhận kết hôn số 3097, Quyển số 16 ngày 23/8/2001 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Trần Thị H và ông Stanley Ray S không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung, tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung: Bà Trần Thị H khai không có, Tòa không xét.

3. Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 200.000 đồng, bà Trần Thị H chịu nhưng được khấu trừ vào số tiền 200.000 đồng mà bà H đã đóng tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2016/0031466, ngày 31/10/2016 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà H đã nộp đủ tiền án phí.

4. Bà Trần Thị H được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án. Ông Stanley Ray S được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ, Viện kiểm sát được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 594/2018/HNGĐ-ST ngày 14/05/2018 về ly hôn

Số hiệu:594/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về