Bản án 59/2021/HS-ST ngày 31/03/2021 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT - TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 59/2021/HS-ST NGÀY 31/03/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 31 tháng 3 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 52/2021/TLST- HS ngày 10 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2021/QĐXX - HS ngày 16/3/2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Quốc T(tên gọi khác: Bé) sinh năm:1989, tại: Lâm Đồng; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: đường X, Phường H, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Làm thuê; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; con ông: Nguyễn Văn C, sinh năm: 1952 (chết) và bà: Lữ Thị L, sinh năm:1958;

Tiền án: Tại bản án hình sự số 62/2012/HSST ngày 29/5/2012, Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt xử phạt Nguyễn Quốc T 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma” đến ngày 13/11/2013 chấp hành xong hình phạt chính, chưa chấp hành số tiền phạt bổ sung là 5.000.000đ (năm triệu đồng) và 200.000đ (hai tăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm; tiền sự: Ngày 24/7/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 15 tháng.

Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 09/02/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đà Lạt.

2. Họ và tên: Nguyn Hoàng L (tên gọi khác: Ện), sinh năm:1991, tại: Lâm Đồng; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: đường Mai Văn T, Phường T1, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Thiên chúa; con ông: Nguyễn Đình H, sinh năm: 1952 (chết) và bà: Hoàng Thị D, sinh năm:1956; vợ Bùi Bạch Mai Phương T2, sinh năm: 1991 (chưa đăng ký kết hôn); có 02 con, lớn nhất sinh năm: 2013, nhỏ nhất sinh năm: 2015; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày15/9/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lâm Đồng.

- Người bị hại: Anh Vũ Văn Đ2, sinh năm: 1986 Địa chỉ: đường Đ3, Phường T1, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

- Người làm chứng: Chị Trần Nguyễn Thu H2, sinh năm: 1993 Địa chỉ: đường Đ3, Phường T1, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

(Các bị cáo đều có mặt; anh Đ2 và chị H2 vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 3/2020, Nguyễn Hoàng L có quan hệ tình cảm với chị Trần Nguyễn Thu H2 mặc dù biết chị H2 đã có chồng. Trong quá trình quen H2, L có giới thiệu H2 với Nguyễn Quốc Tuấn. Tối ngày 27/5/2020, chị H2 và chồng là anh Vũ Văn Đ2 đến hát tại quán karaoke MT, đường N, phường S, Đà Lạt. Trong lúc hát, chị H2 đi taxi đến quán cà phê ở đường H, phường S, Đà Lạt và rủ Nguyễn Quốc T đến hát chung. T đồng ý rồi chở chị H2 đến đón Nguyễn Hoàng L để cùng đi hát chung. Khi T chở chị H2 và L đến quán karaoke MT thì L và H2 xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nên L xuống xe đi về còn T tiếp tục chở H2 đi hát. Một lúc sau, T nhận được điện thoại của anh Vũ Văn Đ2 hỏi lý do T đi chung với vợ anh Đ2 rồi T và anh Đ2 nhắn tin cự cãi, thách thức nhau. T nói H2 xuống xe rồi điều khiển xe đến gặp nói cho L biết có người thách thức đánh nhau với T và mượn L một con dao để gặp anh Đ2. Sau khi nghe T kể và xem những tin nhắn thì L đồng ý giúp Tđi tìm Đ2 để giải quyết mâu thuẫn. L nói T chở về nhà L tại 320 Mai Xuân Thưởng, phường 8, Đà Lạt lấy một con dao chặt thịt dài 35cm mang theo rồi T chở L đến quán karaoke MT tìm anh Đ2. Khi đến quán, thấy anh Đ2 đã đi về nên T chở L về nhà. Khoảng 22 giờ cùng ngày, khi đi đến đoạn đường N, cách ngã 3 N và T, phường T1, Đà Lạt khoảng 300 mét, T phát hiện chị H2 ngồi sau, đang được anh Đ2 chở đi, nên khi vừa vượt qua xe của anh Đ2, T dừng xe ngay giữa ngã ba, quay lại nói với L biết anh Đ2 đang chở chị H2, cả hai cùng ngồi chờ trên xe. Khoảng 15 giây sau, khi anh Đ2 chở H2 đi đến ngã ba, rẽ phải qua Trần Đại Nghĩa đến gần xe của T và L thì L cầm dao chạy đến chém vào mặt của anh Đ2 một nhát, chém tiếp vào tay trái của anh Đ2 một nhát rồi làm rơi dao ở trước tiệm sửa xe Chung Chương. Sau đó, L chạy ra xe cho T chở đi tẩu thoát, còn anh Đ2 được chị H2 đưa cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Lâm Đồng (BL: 89-114, 120-129).

Vật chứng vụ án là 01 con dao loại bản to, chiều dài 34,5cm, lưỡi bằng kim loại màu đen có nhiều vết rỉ sét (BL: 115) Người bị hại là anh Vũ Văn Đ2, sinh năm: 1986, HKTT: đưng Đ, phường T, Đà Lạt, bị 01 vết thương má phải dài 8,5cm, 01 vết thương tại trái dài 4cm, 01 vết thương mi mắt trái 1,5cm, 01 vết thương cánh tay trái dài l cm. Tại bản kết luận giám định số 195/2020-TgT ngày 31/8/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Lâm Đồng xác định: tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Vũ Văn Đ2 là 18%. Anh Đ2 đã nhận số tiền bồi thường từ các gia đình bị can Nguyễn Hoàng L là 11.000.000đ, bị can Nguyễn Quốc T là 10.000.000đ và có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị can (BL: 103- 108, 138-139) Tại bản cáo trạng số 59/CT-VKS ngày 10/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt truy tố các bị cáo Nguyễn Quốc T và Nguyễn Hoàng L về tội về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, i khoản 1; điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Quốc T khai nhận, vào tối ngày 27/5/2020, trong lúc chở chị Trần Nguyễn Thu H2 trên đường đến quán hát Karaoke thì bị Vũ Văn Đ2 là chồng của H2 gọi điện thoại hỏi lý do T đi chung với H2 rồi hai bên nhắn tin cự cãi, thách thức nhau, nên T cho H2 xuống và điều khiển xe tìm gặp L. Sau khi hỏi mượn L con dao và cho L xem tin nhắn thì L biết người nhắn tin mâu thuẫn với T là Vũ Văn Đ2 - chồng của Trần Nguyễn Thu H2 - là bạn của L. T đã chở L về nhà của L tại số nhà 350 đường T, phường T1, thành phố Đà Lạt để L lấy một con dao chặt thịt dài khoảng 35cm và mang theo để T chở đi tìm Đ2 giải quyết mâu thuẫn. Khi T chở L đến đoạn đường gần ngả ba N và T thì T phát hiện chị H2 ngồi sau, đang được anh Đ2 chở đi, nên khi vừa vượt qua xe của anh Đ2, T dừng xe ngay giữa ngã ba, quay lại nói với L biết anh Đ2 đang chở chị H2, ngay khi anh Đ2 chở H2 đi đến ngã ba, rẽ phải qua đường T đến gần xe của T thì T kêu lại, anh Đ2 ngã xe xuống thì L cầm dao chạy đến chém nhiều nhát vào người anh Đ2, do trời tối bị cáo không xác định cụ thể chém vào vị trí nào rồi L làm rơi dao ra đường. Sau đó, L chạy ra xe cho T chở đi tẩu thoát như cáo trạng truy tố là hoàn toàn chính xác và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo Nguyễn Hoàng L khai nhận, mặc dù không quen biết anh Vũ Văn Đ2, nhưng vào tối ngày 27/5/2020, sau khi nghe T hỏi mượn một con dao và nghe T kể bị Vũ Văn Đ2 cự cải, thách thức thì L nói T chở L về nhà tại đường T, Phường T1, thành phố Đà Lạt lấy một con dao chặt thịt và T chở L đi tìm anh Đ2 để giải quyết mâu thuẫn. Khi đến đoạn đường gầm ngãn ba N và T thì T dừng xe do thấy anh Đ2 đang chở chị H2. T dừng xe thì L nhảy xuống dùng dao chém vào mặt và người anh Đ2 gây thương tích 18% như cáo trạng truy tố là hoàn toàn chính xác và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Sau phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Nguyễn Quốc T và Nguyễn Hoàng L về tội “Cố ý gây thương tích” và đề nghị áp dụng điểm a, i khoản 1; điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T từ 42 (bốn mươi hai) đến 48 (bốn mươi tám) tháng tù; đề nghị áp dụng điểm a, i khoản 1; điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng L từ 36 đến 42 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự, người bị hại là anh Vũ Văn Đ2 đã nhận tiền bồi thường thiệt hại từ gia đình các bị cáo và không yêu cầu bồi t hường gì thêm nên không đề cập xem xét.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 con dao là tang vật của vụ án; trả cho bị cáo Nguyễn Hoàng L một điện thoại di động hiệu Itel.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Vào tối ngày 27/5/2020, do có mâu thuẫn với Vũ Văn Đ2, nên Nguyễn Quốc T đã rủ Nguyễn Hoàng L tìm gặp Đ2 mục đích để giải quyết mâu thuẫn. Khi T chở L đến đoạn đường Nguyên Tử Lực, gần ngả 3 đường N và đường T, phường T1, thành phố Đà Lạt khoảng 300 mét thì T thấy Đ2 đang chở H2 và con bằng xe Wave, T la lên thì anh Đ2 tự té xuống đường do Đ2 đã say, cùng lúc đó L cầm dao lao đến chém 01 nhát vào đầu anh Đ2, do anh Đ2 đưa tay ra đở nên L chém thêm 02 nhát vào người anh Đ2 thì dao bị văng ra đường gần đó nên L chạy ra xe cho T chở đi tẩu thoát, còn anh Đ2 được chị H2 đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Lâm Đồng. Tại Kết luận giám định số 195/2020-TgT ngày 31/8/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Lâm Đồng kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Vũ Văn Đ2 là 18%.

[3] Xét thấy, các bị cáo Nguyễn Quốc T và Nguyễn Hoàng L là người đã trưởng thành có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Các bị cáo biết rõ hành vi dùng dao là hung khí nguy hiểm tác động vào thân thể gây thương tích cho người khác là vi phạm pháp luật, nhưng do bản tính hung hăn, côn đồ, xem thường tính mạng, sức khỏe của người khác, để giải quyết mâu thuẫn nhỏ mà các bị cáo đã để lại hậu quả vô cùng nặng nề. Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, thể hiện thái độ liều lĩnh, không những xem thường tính mạng, sức khỏe của người khác; xâm phạm vào quyền được bảo vệ sức khỏe của công dân mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, nên cần phải xử lý nghiêm minh, phù hợp với hành vi của từng bị cáo đã gây ra. Căn cứ lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa, lời khai của người bị hại, của người làm chứng trong quá trình điều tra, phù hợp với tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra vụ án, có đủ căn cứ kết luận hành vi của các bị cáo Nguyễn Quốc T và Nguyễn Hoàng L phạm vào tội “Cô ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự, như cáo trạng số 59/CT-VKS ngày 10/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng truy tố và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Vụ án mang tính chất đồng phạm giản đơn, quá trình thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo không bàn bạc, phân công cụ thể. Xét vai trò, hành vi của từng bị cáo thì thấy, bị cáo Nguyễn Quốc T tuy không phải là người trực tiếp gây thương tích cho Vũ Văn Đ2, nhưng bị cáo là người trực tiếp mâu thuẫn với Đ2; chủ động đề xuất mượn dao và rủ bị cáo L mang dao và trực tiếp chở L đi tìm anh Đ2 để giải quyết mâu thuẫn; phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, lẽ ra phải có mức án cao hơn bị cáo L mới có tác dụng răn đe giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, bị cáo Nguyễn Hoàng L sau khi nghe T kể và xem những tin nhắn thì đồng ý giúp T đi lấy dao tìm Đ2 để giải quyết mâu thuẫn; là người trực tiếp dùng dao chém nhiều nhát vào người gây thương tích cho anh Đ2; cùng tham gia một cách tích cực, mặt dù không biết và chưa gặp Vũ Văn Đ2 lần nào; thực hiện hành vi phạm tội một cách hung hăn, quyết liệt, có tính chất côn đồ; bất chấp hậu quả xảy ra; tính chất mức độ phạm tội của bị cáo L cũng nghiêm trọng như bị cáo T nên cũng cần có mức án thật nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Nguyễn Quốc T phạm tội thuộc trường hợp tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ Luật hình sự, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Do các bị cáo thành khẩn khai báo thể hiện sự ăn năn hối lỗi về hành vi phạm tội của mình; các bị cáo tác động gia đình bồi thường thiệt hại; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt đối với các bị cáo nên áp dụng điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự là tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo là phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là anh Vũ Văn Đ2 đã nhận số tiền bồi thường 11.000.000đ (mười một triệu đồng) từ gia đình bị cáo L và 10.000.000đ (mười triệu đồng) từ gia đình bị cáo T, quá trình điều tra và tại phiên Tòa, anh Đ2 không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì thêm. Do vậy, Hội đồng xét xử sơ thẩm không đề cập xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 (một) con dao dài khoảng 34,5cm, có chiều dài lưỡi 22,5cm bằng kim loại, bề rộng 10cm, là phương tiện các bị cáo dùng phạm tội, xét không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp. Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Itel, màu đen, dạng phím bấm của bị cáo Nguyễn Hoàng L, không liên quan gì đến việc giải quyết vụ án cũng như thi hành án nên trả lại cho bị cáo là phù hợp.

[8] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Quốc T và Phạm Hoàng L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

1.1. Áp dụng điểm a, i khoản 1 và điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T 42 (bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09 tháng 02 năm 2021.

1.2. Áp dụng điểm a, i khoản 1 và điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51của Bộ luật hình sự, Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng L 42 (bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15 tháng 9 năm 2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a và c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 và 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

2.1. Tịch thu tiêu hủy 01(một) con dao dài khoảng 34,5cm, chiều dài lưỡi 22,5cm bằng kim loại, màu đen bề rộng 10cm, cám bằng gỗ hình tròn dài 12cm.

2.2. Trả cho bị cáo Nguyễn Hoàng L 01 (một) điện thoại di động hiệu Itel, màu đen, dạng phím bấm.

(Theo biên bản giao, nhận tang vật ngày 11/3/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Lạt và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo được quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Riêng người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo theo thời hạn nêu trên kể từ ngày nhận được bản sao hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2021/HS-ST ngày 31/03/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:59/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về