Bản án 59/2021/HS-ST ngày 30/09/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN - TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 59/2021/HS-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 30/09/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 55/2021/TLST-HS ngày 13 tháng 09 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 09 năm 2021 đối với bị cáo:

Bùi Văn N, sinh ngày 12/02/1985 tại xã Ân Nghĩa, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Nơi cư trú: xóm C, xã Â, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hóa (học vấn) 05/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn Ngại và bà Quách Thị Nước; Vợ: Bùi Thị Tâm (đã ly hôn) và có 03 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 03/2021/HSST-LCDKNCT ngày 13/09/2021 của Toà án nhân dân huyện Lạc Sơn. Có mặt.

- Bị hại: Phạm Văn H, sinh năm 1976. Địa chỉ: Đội x, thôn z, xã Thạch Long, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt;

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Vũ Thị L, sinh năm 1978. Địa chỉ: khu Thanh B, thị trấn Hàng T, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình. Có mặt;

+ Bùi Văn N, sinh năm 1957. Địa chỉ: xóm C, xã Â, huyện Lạc S, tỉnh Hòa Bình. Có mặt;

+ Phạm Như D, sinh năm 1986. Địa chỉ: phố R, xã Ân Ngh, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt;

+ Giang Thị Thanh H, sinh năm 1989. Địa chỉ: phố R, xã Ân Ng, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt;

- Người làm chứng: Vũ Văn Linh, sinh năm 1995. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Văn N và anh Phạm Văn Hùng có mối quan hệ quen biết nhau, anh Hùng thường sử dụng phương tiện là xe mô tô để ra nhà N chơi. Sáng ngày 08/5/2021, do không có tiền tiêu sài cá nhân, N đã gọi điện thoại rủ anh Hùng ra nhà mình chơi với ý định chiếm đoạt xe mô tô của anh Hùng. Khoảng 09 giờ 00 phút cùng ngày, anh Hùng đi xe mô tô biển kiểm soát 28F1 - 034.43 đến nhà N. N nói dối anh Hùng là mượn xe mô tô của anh Hùng để đi chợ nhưng thực chất là để đi cầm cố. Anh Hùng tin lời và giao xe cùng chìa khóa điện cho N. Sau đó, N đã điều khiển chiếc xe mô tô trên đến quán cầm đồ Anh Dũng của anh Phạm Như Dũng và chị Giang Thị Thanh Hoa, địa chỉ: Phố Re, Ân Nghĩa, Lạc Sơn, Hòa Bình vay số tiền 500.000đ và cầm cố xe của Hùng tại đó. Sau đó, N đi về nhà và nói dối anh Hùng là xe bị Cảnh sát giao thông Công huyện Lạc Sơn giữ và hẹn Hùng 10 ngày sau mới giải quyết lấy xe. Anh Hùng vẫn tin lời N và chờ ngày đến hẹn lấy xe về. Ngày 09/05/2021, N đến Quán cầm đồ Anh Dũng vay thêm 1.500.000đ và ngày 12/5/2021 vay thêm 2.000.000đ. Tổng cộng N vay của anh Dũng, chị Hoa là: 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng). Đến ngày 29/5/2021, sau nhiều lần liên lạc yêu cầu N trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 28F1 - 034.43 không được. Biết tin xe của mình đã bị N đem đi cầm cố và N đã bỏ đi khỏi địa phương nên anh Hùng đã làm đơn tố giác N đến Cơ quan Công an huyện Lạc Sơn. Ngày 10/6/2021, N đã đến Công an huyện Lạc Sơn đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của mình.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 09/KL-HĐĐGTS ngày 14/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạc Sơn đã kết luận: Chiếc xe mô tô 28F1 - 034.43 có giá trị hiện tại là: 3.126.933 đồng (Ba triệu, một trăm hai mươi sáu nghìn, chín trăm ba mươi ba đồng).

Quá trình điều tra, Bùi Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, phù hợp với các tài liệu, vật chứng đã thu giữ được.

Tại bản cáo trạng số: 53/CT-VKS, ngày 12/09/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình truy tố Bùi Văn N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự. Thc hành quyền công tố tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khon 1 Điều 174, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Bùi Văn N từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Không áp dụng hình hạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với Giang Thị Thanh Hoa và Phạm Như Dũng là người cho Bùi Văn N vay tiền và giữ lại xe mô tô biển kiểm soát 28F1 - 034.43 là vật chứng của vụ án. Khi đó chị Hoa, anh Dũng không biết chiếc xe mô tô trên do bị cáo phạm tội mà có. Do đó, đề nghị HĐXX không cập xử lý hành vi của chị Hoa, anh Dũng trong vụ án.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Phạm Văn Hùng đã nhận lại tài sản là chiếc xe mô tô bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì; Ông Bùi Văn Ngại là bố đẻ của bị cáo N đã tự nguyện trả lại số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) là số tiền mà Bùi Văn N đã vay ở quán cầm đồ Anh Dũng ngày 08/5/2021, nay ông Ngại không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự với bị cáo; Chị Giang Thị Thanh Hoa và Phạm Như Dũng đã nhận đủ số tiền mà bị cáo vay và không có yêu cầu gì với bị cáo do đó đề nghị HĐXX không xem xét giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án.

Về vật chứng: Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 28F1 – 034.43, xác định là tài sản thuộc quyền chủ sở hữu hợp pháp của anh Phạm Văn Hùng, xe có giấy đăng ký theo quy định. Xét thấy, không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình ra Quyết định xử lý vật chứng đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Hùng. Việc xử lý vật chứng nêu trên là phù hợp khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự nên đề nghị HĐXX công nhận và không xem xét.

Bị cáo nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn và không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo không có lời bào chữa.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; lời khai bị hại; người làm chứng; biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận:

Do bản thân lười lao động, muốn có tiền tiêu sài cá nhân nên ngày 08/5/2021, Bùi Văn N đã dùng thủ đoạn bằng lời nói gian dối để anh Phạm Văn Hùng tin tưởng giao tài sản của mình cho N để N thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt của anh Hùng 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE S, màu sơn đen-đỏ-bạc, BKS 28F1- 034.43, hiện giá trị còn lại là 3.126.933 đồng (Ba triệu một trăm hai mươi sáu nghìn chín trăm ba mươi ba đồng). Hành vi của bị cáo đủ yêu tố cấu thành ti “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến đến quyền sở hữu của người khác gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, ý thức rõ sự nguy hiểm của hành vi của mình gây ra nhưng vẫn cố tình thực hiện. Do đó, cần phải có hình thức xử lý phù hợp đề thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo tự nguyện đầu thú; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tác động ông Bùi Văn Ngại (là bố đẻ của bị cáo) chuộc lại chiếc xe mô tô mà bị cáo chiếm đoạt để trả lại cho bị hại và trả lại số tiền mà bị cáo đã vay ở quán cầm đồ Anh Dũng ngày 08/5/2021; bị cáo phạm tội lần đầu, ít nghiêm trọng; gia đình bị cáo thuộc diện gia đình hộ nghèo của xã Ân Nghĩa là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần được xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm cho bị cáo trong quá trình lượng hình.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo có khả năng tự cải tạo, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội mà cần cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích và phòng ngừa chung cho xã hội, đồng thời thể hiện tính nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, gia đình bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo, bản thân bị cáo không có nghề nghiệp ổn định. HĐXX quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản khoản 5 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Phạm Văn Hùng đã nhận lại tài sản là chiếc xe mô tô bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì; Ông Bùi Văn Ngại là bố đẻ của bị cáo N đã tự nguyện trả lại số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) là số tiền mà Bùi Văn N đã vay ở quán cầm đồ Anh Dũng ngày 08/5/2021, nay ông Ngại không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự với bị cáo; Chị Giang Thị Thanh Hoa và Phạm Như Dũng đã nhận đủ số tiền mà bị cáo vay và không có yêu cầu gì với bị cáo do đó HĐXX không xem xét giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án.

[6] Về vật chứng: Về vật chứng: Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 28F1 – 034.43, xác định là tài sản thuộc quyền chủ sở hữu hợp pháp của anh Phạm Văn Hùng, xe có giấy đăng ký theo quy định. Xét thấy, không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình ra Quyết định xử lý vật chứng đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Hùng. Việc xử lý vật chứng nêu trên là phù hợp khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự nên HĐXX công nhận và không xem xét.

[7] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt đối với bị cáo và các vấn đề khác.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định các 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khon 1 Điều 174; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Không áp dụng hình hạt bổ sung đối với bị cáo.

Về mức hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi Văn N 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án (ngày 30/09/2021).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Ân Nghĩa, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Căn cứ các Điều 331 và 333 Bộ luật Hình sự: bị cáo, bị hại; ngưi có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án hoặc trích lục bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết công khai tại nơi cư trú của họ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2021/HS-ST ngày 30/09/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:59/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về