TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 59/2021/HS-PT NGÀY 18/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 18 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 39/2021/TLPT-HS ngày 07 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Thị Kim H do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Kim H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 23/2021/HS-ST ngày 30/03/2021 của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
- Bị cáo kháng cáo:
Nguyễn Thị Kim H; tên gọi khác: Không; sinh ngày 20 tháng 07 năm 1976 tại thành phố Đà Nẵng. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ xx phường A, quận L, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Thiên Chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông T (đã chết) và bà N (đã chết). Bị cáo có chồng là E và 01 người con sinh năm 2004.
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 17/01/1998, bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xử phạt 12 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” và “Gây rối trật tự công cộng”.
Bị cáo bị bắt ngày 18/8/2020. Bị cáo hiện đang tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 18/8/2020, Công an phường A, quận L tiến hành kiểm tra hành chính tại địa chỉ K195/xx đường Đ, phường A, quận L, thành phố Đà Nẵng do Nguyễn Thị Kim H là chủ sở hữu phát hiện H cùng Nguyễn Văn K (SN: 1973; trú: Tổ 1x phường M, quận T, thành phố Đà Nẵng); Dương Thị N (SN: 1991; trú: 5x đường T, quận T, thành phố Đà Nẵng); Nguyễn Ngọc T (SN: 1989; trú: Tổ 3x, phường Đ, quận K, thành phố Đà Nẵng) và Nguyễn Văn H1 (SN: 1990; trú: xx đường H, quận K, thành phố Đà Nẵng) và T1 (chưa xác định nhân thân, lai lịch) đang có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Tang vật thu giữ:
- Tại góc tường phía Đông Bắc sát bờ tường trong phòng ngủ thứ nhất nhà của Nguyễn Thị Kim H có 01 túi xách màu hồng, bên trong có 01 gói nilong kích thước khoảng (4x4) cm chứa 1/3 chất tinh thể màu trắng (được niêm phong trong bì thư ký hi ệu HA.01).
- Tại nền trong phòng ngủ của Nguyễn Thị Kim H, sát bờ tường phía Đông của ngôi nhà cách mép cửa vào phòng ngủ theo hướng từ Bắc về hướng Nam 50 cm có 01 tờ tiền mệnh giá 2000 VNĐ, được xếp hình chữ nhật, bên trong chứa chất bột màu trắng, (được niêm phong trong bì thư ký hiệu HA.02).
- Tại mặt bàn nhỏ trong phòng ngủ của Nguyễn Thị Kim H có 01 ống thủy tinh (nỏ thủy tinh để sử dụng ma túy đá) màu xanh bên trong vẫn còn chất tinh thể đã chuyển màu nâu (được niêm phong ký hiệu HA.03).
- Trong ngăn chính giữa tủ quần áo trong phòng ngủ phía sau của nhà Nguyễn Thị Kim H có 01 quần jean màu xanh có chữ Fashions bougue women, trong túi phía sau bên phải của cái quần này có 01 miếng giấy màu trắng bên trong gói ½ viên nén hình trụ màu hồng (được niêm phong trong bì thư ký hi ệu HA.05).
- Trên bàn để tivi sát bờ tường dưới chân giường trong phòng ngủ của Nguyễn Thị Kim H có 01 giỏ xách màu cam, bên trong có 01 tờ tiền mệnh giá 1000 VNĐ, được xếp hình chữ nhật bên trong chứa chất bột màu trắng (được niêm phòng trong phong bì thư ký hiệu HA.07).
- Tại trong tủ đứng áo quần trong phòng ngủ của Nguyễn Thị Kim H có 09 ống hút nhựa, 01 hình trụ phía dưới có 3 chân, trên đầu có 01 bình thủy tinh nắp màu trắng; 01 nắp bên trong bằng nhựa, bên ngoài bằng kim loại hình tròn đường kính khoảng 4 cm; 01 ống nhựa màu trắng xanh có một đầu nhọn; 01 nắp nhựa màu xanh đục 02 lỗ và 01 chai nước; 01 bình gas mini có chữ Bluesky màu đen; tất cả những đồ vật trên được niêm phòng trong thùng giấy ký hiệu HA.04.
- Ngoài ra, còn thu giữ 5 điện thoại di động và 03 xe mô tô các loại.
Kết quả điều tra, xác định được như sau: Vào khoảng tháng 3/2020, H được bạn tên D (quen biết ngoài xã hội) cho 01 viên ma túy dạng thuốc lắc để sử dụng. H sử dụng ½ viên thuốc lắc, còn ½ viên thuốc lắc còn lại H gói trong miếng giấy để ở túi quần jean màu xanh có chữ Fashions bougue women, cất ở trong tủ quần áo phòng ngủ phía sau trong nhà H. Bên cạnh đó, khoảng tháng 2/2020 H có mua ma túy loại Ketamine của một người tên A về nhà sử dụng, H không biết rõ họ tên, địa chỉ của A. H sử dụng còn lại một ít ma túy loại Ketamine gói bằng tờ tiền 1000 đồng được xếp hình chữ nhật, bỏ trong giỏ xách màu cam và để trong phòng ngủ phía sau nhà H.
Ngày 16/8/2020 Nguyễn Thị Kim H nhờ bạn quen biết ngoài xã hội (không rõ lai lịch) mua 300.000 đồng ma túy đá về để sử dụng. Đến sáng ngày 18/8/2020, Ho lấy ma túy đá ra cho vào nỏ sử dụng (bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm chai nhựa, nỏ thủy tinh, ống nhựa để hút) một mình tại phòng ngủ thứ nhất trong nhà H. Khoảng 10 giờ ngày 18/8/2020 thì có Nguyễn Văn H1 (sinh năm 1990, trú: tổ 2x phường X, quận K, thành phố Đà Nẵng) được H nhờ đến chở H đi tìm con gái . H1 vào nhà thấy H sử dụng ma túy đá và chơi game trong phòng ngủ nhưng H1 không sử dụng ma túy mà ra phòng khác ngồi chơi. Khoảng 14 giờ cùng ngày, có 02 người quen biết ngoài xã hội với H là Dương Thị N (sinh năm 1991, trú: xã L, huyện R, tỉnh Kiên Giang) và Nguyễn Văn K (sinh năm 1973, trú: phường M, quận T, Đà Nẵng) đến nhà Hoa chơi. N và K đi đến nhà H bằng xe mô tô BKS 73V2-64xx, H1 là người mở cửa cho N và K vào nhà. N và K vào phòng ngủ thứ nhất trong nhà gặp H. Tại đây, H nói N và K còn ma túy đá đ ể sẵn trên nỏ nếu muốn thì cứ sử dụng. Lúc này N và K cùng sử dụng ma túy có trong nỏ với H. Một lúc sau, có một người thanh niên tên T1 (chưa rõ lai lịch, là bạn quen ngoài xã hội của H) đến nhà H. T1 đi đến bằng xe mô tô biển số 92L1-055xx, H1 là người mở cửa để T1 đi vào nhà. T1 đi vào phòng ng ủ trong nhà thì thấy H, N, K đang sử dụng ma túy đá và chơi game trên điện thoại thì ngồi xuống cùng sử dụng ma túy và chơi game. H, N, K và T1 sử dụng hết ma túy đá trong nỏ thủy tinh màu trắng. Một lúc sau K đang chơi game trên điện thoại di động thì trúng thưởng điểm game. K nói những người có mặt tại đây là muốn đổi thưởng ra tiền mặt mua 500.000 đồng ma túy đá về tiếp tục sử dụng. Do K không biết chỗ đổi tiền và không biết chỗ để mua ma túy nên đưa điện thoại của K cho H và N thao tác đổi điểm Game Vip trong tài khoản của H (tương ứng vưới 800.000 đồng) qua cho tài khoản MoMo của H. Sau đó, Nguyên sử dụng số điện thoại 070256xxxx gọi đến số điện thoại 093546xxxx của một người có tên thường gọi là B mà N biết (chưa xác định được lai lịch) hỏi mua ma túy với giá 500.000 đồng. B yêu cầu N chuyển tiền vào tài khoản MoMo của số điện thoại 093546xxxx. Sau khi chuyển tiền N gọi điện thoại cho B thì B bảo N đến Kiệt 3x đường K, thành phố Đà Nẵng, vào kiệt đi đến một gốc cây có một miếng giấy bên trong có chứa ma túy. N đến điểm hẹn lấy ma túy đem về nhà H bỏ vào nỏ thủy tinh màu trắng để H, T1, K và N vừa sử dụng, vừa chơi game. Lúc này, H đi vào phòng ngủ và có tham gia sử dụng ma túy. Một lúc sau thì có Nguyễn Ngọc T (sinh năm 1989, trú: tổ 1x, phường X, quận K, thành phố Đà Nẵng là cháu gọi H bằng dì ruột) cũng đến nhà H. T vào và ngồi chơi game nhưng không sử dụng ma túy.
Đến 17 giờ 30 phút, ngày 18/8/2020, do phát hiện tại nhà của Nguyễn Thị Kim H tụ tập nhiều người nên lực lượng công an phường A, quận L tiến hành kiểm tra hành chính. Khi H ra mở cửa cho lực lượng công an vào thì người tên T1 lợi dụng sơ hở bỏ chạy ra khỏi nhà, K trốn vào trong tủ trong căn phòng nơi s ử dụng ma túy đá. T trốn vào tủ quần áo trong phòng ngủ phía sau của nhà Nguyễn Thị Kim H. H thì trốn lên mái tôn nhà.
Tại Bản kết luận giám định số 245/GĐ-MT ngày 26/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Đà Nẵng xác định:
- Tinh thể màu trắng được niêm phòng trong bì thư ký hi ệu HA.01; chất bột màu trắng được niêm phòng trong bì thư ký hi ệu HA.02 và HA.07 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine; khối lượng tinh thể mẫu HA.01: 0,466 gam; chất bột mẫu HA.02: 0,018 gam; HA.07: 0,015 gam.
- Tinh thể màu nâu được niêm phòng trong bì thư ký hi ệu HA.03 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng tinh thể mẫu HA.03: 0,016 gam.
- ½ viên nén hình trụ màu hồng được niêm phòng trong bì thư ký hiệu HA.05 gửi giám định là ma túy, loại MDMA; khối lượng mẫu HA.05: 0,188 gam.
Với nội dung nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2021/HSST ngày 30/3/2021 của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Kim H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về hình phạt: Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Kim H: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/8/2020.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí và thông báo về quyền kháng cáo bản án.
Ngày 01/4/2021, bị cáo Nguyễn Thị Kim H có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Nguyễn Thị Kim H thừa nhận hành vi phạm tội của mình như án sơ thẩm đã kết luận, giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo, cho rằng mức hình phạt 01 năm 06 tháng tù là quá nặng, vì vậy bị cáo xin giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo sớm được trở về với cộng đồng và với gia đỉnh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:
Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Kim H là đảm bảo hợp lệ.
Về nội dung kháng cáo: Bản án hình sự sơ thẩm số: 23/2021/HS-ST ngày 30/3/2021 của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Toà án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, xử phạt 01 năm 06 tháng tù là phù hợp, không nặng; bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết gì mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm có đủ căn cứ để khẳng định:
[1]. Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 18/8/2020, tại địa chỉ K195/xx đường Đ, phường A, quận L, thành phố Đà Nẵng, Công an phường A, quận L phát hiện, bắt quả tang bị cáo Nguyễn Thị Kim H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy gồm:
0,499 gam ma túy Ketamine, 0,016 gam ma túy Methamphetamine và 0,188 gam ma túy MDMA; mục đích tàng trữ ma tuý là để sử dụng. Vì vậy, Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2021/HSST ngày 30/3/2021 của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan; bị cáo cũng thừa nhận tội.
[2]. Xét đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Kim H, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm và trừng trị, nhưng để thoả mãn nhu cầu sử dụng trái phép chất ma tuý của bản thân, bị cáo đã tàng trữ nhiều loại chất ma tuý gồm: Methaphetamine, MDMA và Katemin để sử dụng, không những vậy bị cáo còn có hành vi sử dụng ngôi nhà ở của mình để cho nhiều người khác tới cùng sử dụng trái phép chất ma tuý. Do vậy, cần phải xử phạt nghiêm đối với bị cáo.
Xét Toà án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính ch ất hành vi phạm tội của bị cáo, đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng cũng như có xét đến nhân thân, hoàn cảnh của bị cáo, xử phạt mức án 18 tháng tù là phù hợp, không nặng. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo mà giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm, như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[5]. Kiến nghị: Ngoài hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo Nguyễn Thị Kim H đã đư ợc xét xử trong vụ án này, theo tài liệu có tại hồ sơ vụ án và Bản kết luận điều tra của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Cẩm Lệ còn xác định: Nguyễn Thị Kim H, Nguyễn Văn K và Dương Thị N còn có hành vi có dấu hiệu phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”, nhưng đã đư ợc cơ quan điều tra Công an quận Cẩm Lệ tách hành vi này ra để điều tra và xử lý sau. Trong quá trình xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử thấy rằng hành vi trên là có dấu hiệu của tội phạm, nên kiến nghị với Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Cẩm Lệ và Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ tiếp tục tiến hành điều tra, nếu có đủ căn cứ cần khởi tố điều tra, truy tố và xử lý theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Kim H, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Kim H: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian thụ hình tính từ ngày bị bắt 18/8/2020.
2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị Kim H phải chịu 200.000đ án phí HSPT.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 59/2021/HS-PT ngày 18/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 59/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về