Bản án 59/2021/HS-PT ngày 12/05/2021 về tội cướp giật tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 59/2021/HS-PT NGÀY 12/05/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 12/5/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 60/TLPT-HS ngày 23/02/2021 đối với các bị cáo Lại Văn L do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 04/2021/HS-ST ngày 12/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang.

- Họ và tên: Lại Văn L, sinh năm: 1987.

- STQ: Thôn Kh, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang;

Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 12/12; đảng, đoàn thể: Không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Hoa; tôn giáo: Không; con ông: Lại Hỏa S (đã chết); con bà: Trịnh Thị Th, sinh năm 1952; vợ, con: Chưa có; tiền sự, tiền án: Không.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/8/2020, hiện đang bị giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Bắc Giang (có mặt).

Vụ án có 5 người bị hại, 5 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và 7 người làm chứng nhưng không có kháng cáo và liên quan đến kháng cáo, HĐXX cấp phúc thẩm không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 22/7/2020 đến ngày 09/8/2020, Lại Văn L, sinh năm 1987, trú tại Thôn Kh, xã T, huyện L đã 05 lần sử dụng chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave, màu sơn trắng, xe không có cánh yếm, không gắn biển số làm phương tiện để thực hiện 05 vụ cướp giật tài sản trên địa bàn huyện L, tỉnh Bắc Giang, cụ thể như sau:

Vụ thứ 1: Khoảng 21 giờ ngày 22/7/2020 Lại Văn L điều khiển chiếc xe mô tô trên đi từ nhà ra thị trấn Ch, huyện L chơi. Khi đi đến thị trấn Ch, L tiếp tục đi theo Quốc lộ 31 hướng lên Phố K, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Trên đường đến địa phận Tổ dân phố Mới, thị trấn Ch, huyện L thì L phát hiện thấy anh Nguyễn Tùng L, sinh năm 2002, trú tại thôn H, xã Tr, huyện L đang điều khiển xe máy điện đi phía trước cùng chiều, chở sau là chị Vũ Thị Thanh H, sinh năm 2002, trú tại thôn Cầu Cao, xã Quý Sơn, huyện L, tỉnh Bắc Giang, trên tay chị Huyền đang cầm 01 (một) chiếc điện thoại di động, đó là chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 7 Plus 32GB, màu đen, bên trong có gắn sim điện thoại số 0368.312.442. L điều khiển xe đi theo phía sau, khi đi đến đoạn đường gần cây xăng “Lan Đạo” thuộc địa phận Tổ dân phố Mới, thị trấn Ch, huyện L thấy vắng người qua lại, L điều khiển xe mô tô từ phía sau đến ép sát xe mô tô do anh Hùng điều khiển chở chị Huyền rồi dùng tay phải giật lấy chiếc điện thoại di động của chị H đang cầm trên tay. Sau đó L tăng ga bỏ chạy theo hướng đi Phố K, xã H, huyện L. Chị H bị giật mất điện thoại đã tri hô và anh Hùng điều khiển xe đuổi theo L nhưng không đuổi kịp. Còn L sau khi điều khiển xe bỏ chạy đến Phố K, xã H, huyện L phát hiện không thấy ai đuổi theo nên đã điều khiển xe đi theo đường Cầu phao thuộc thị trấn Ch, huyện L về nhà ngủ. Đến khoảng 09 giờ ngày 23/7/2020, L mang chiếc điện thoại di động IPHONE 7 Plus cướp giật được đến cửa hàng sửa chữa điện thoại di động do anh Đinh Văn B, sinh năm 1983, trú tại Tổ dân phố M, thị trấn Ch, huyện L bán được số tiền 800.000 đồng. Trước khi bán điện thoại cho anh B, L đã tháo sim trong điện thoại và vứt đi trên đường đi bán điện thoại. Số tiền bán chiếc điện thoại cướp giật được L đã tiêu sài cá nhân hết.

Ngày 15/8/2020, chị Vũ Thị Thanh H có đơn trình báo gửi Công an huyện L. Ngày 14/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện L đã tạm giữ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 7 Plus, màu đen, có số imei là 359471085762623 do anh Đinh Văn B giao nộp.

Đối với 01 (một) chiếc sim điện thoại di động số 0368.312.442, trước khi bán điện thoại cho anh B, L đã vứt đi trên đường đi bán điện thoại và không xác định được vị trí vứt chiếc sim. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L đã ra thông báo truy tìm vật chứng đối với 01 (một) chiếc sim điện thoại di động số 0368.312.442 mà Lại Văn L cướp giật của cháu Vũ Thị Thanh H, nhưng đến nay chưa có kết quả nên chưa thu hồi được.

Ngày 14/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện L ra yêu cầu định giá tài sản đối với tài sản đã bị cướp giật gồm 01 (một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu IPHONE, loại 7 Plus 32GB, màu đen và 01 (một) sim điện thoại số 0368.312.442. Tại bản kết luận định giá tài sản số 151/KL-HĐ ngày 15/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện L kết luận: 01 (một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu IPHONE, loại 7 Plus 32GB, màu đen, có giá trị ở thời điểm bị chiếm đoạt 4.400.000 đồng và số tiền khôi phục 01 (một) chiếc sim điện thoại số 0368.312.442 là 25.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 4.425.000 đồng .

Về vật chứng của vụ án: Ngày 22/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 73/CSĐT trả lại chị Vũ Thị Thanh H 01 (một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu IPHONE, loại 7 Plus 32GB, màu đen.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Vũ Thị Thanh H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị bồi thường. Anh Đinh Văn B không có yêu cầu đề nghị bồi thường.

Vụ thứ 2: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 26/7/2020, Lại Văn L tiếp tục điều khiển chiếc xe mô nêu trên đi từ thị trấn Ch, huyện L để về nhà ở thôn Khả Lã 2, xã Tân Lập. Khi đi qua Cầu Nam Dương thuộc địa phận thôn T, xã Nam Dương, huyện L được khoảng 10m thì L phát hiện thấy có 02 cháu học sinh đi xe đạp điện phía trước cùng chiều. Người điều khiển xe đạp điện là cháu Nguyễn Văn Đ, sinh năm 2008, trú tại thôn T, xã Nam Dương, huyện L, chở phía sau là cháu Vi Thị H, sinh năm 1998, trú ở cùng thôn. cháu H ngồi phía sau cầm trên tay 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, loại A71, màu hồng, mặt trước dán kính cường L, mặt sau có vỏ ốp bằng nhựa màu tím, trong điện thoại có 02 sim điện thoại (gồm sim điện thoại số 0345.255.285 và số 0854.171.431). Quan sát thấy không có người qua lại, L tăng ga áp sát xe của cháu Đức đang điều khiển và dùng tay phải giật lấy chiếc điện thoại di động của cháu H đang cầm trên tay. Sau khi cướp giật được điện thoại, L điều khiển xe mô tô bỏ chạy theo hướng thôn Lâm, xã Nam Dương, huyện L. Cháu Đ và H tri hô đuổi theo L nhưng không đuổi kịp. Còn L tiếp tục điều khiển xe mô tô về xã Tân Lập, huyện L đi qua lối Cầu phao đi sang thị trấn Ch, huyện L đến cửa hàng sửa chữa điện thoại “Quang Bách” do anh Đinh Văn B, sinh năm 1983, trú tại Tổ dân phố M, thị trấn Ch, huyện L bán chiếc điện thoại nêu trên được số tiền 500.000 đồng. Số tiền bán điện thoại L đã tiêu sài cá nhân hết. Trước khi bán điện thoại cho anh B, L đã tháo chiếc vỏ ốp điện thoại và 02 (hai) sim trong điện thoại vừa cướp giật được ra và vứt đi trên đường L đi về nhà.

Ngày 26/7/2020, cháu Vi Thị H có đơn trình báo gửi Công an huyện L.

Ngày 14/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện L đã tạm giữ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, loại A71, màu hồng, có số imei1: 868499036589831 và số imei2: 868499036589823 do anh Đinh Văn B giao nộp.

Ngày 03/8/2020 và ngày 14/10/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện L ra yêu cầu định giá tài sản đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO, loại A71, màu hồng; 01 chiếc vỏ ốp điện thoại bằng nhựa màu tím; 01 (một) miếng dán kính cường L của điện thoại và 02 (hai) chiếc sim điện thoại số 0345.255.285 và số 0854.171.431 của cháu H bị chiếm đoạt nêu trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 117/KL-HĐ ngày 04/8/2020 và số 150/KL-HĐ ngày 15/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện L kết luận: 01 (một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO, loại A71, màu hồng, có giá trị ở thời điểm bị chiếm đoạt 2.400.000 đồng và 01 (một) chiếc vỏ ốp điện thoại bằng nhựa, có giá trị ở thời điểm bị chiếm đoạt là 20.000 đồng; 01 (một) miếng dán kính cường L của điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO, loại A71, có giá trị ở thời điểm bị chiếm đoạt 30.000 đồng và số tiền khôi phục 02 (hai) chiếc sim điện thoại số 0345.255.285 và số 0854.171.431 là 50.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 2.500.000 đồng..

Đối với 01 (một) chiếc vỏ ốp điện thoại di động OPPO A71, màu tím và 02 (hai) chiếc sim điện thoại di động số 0345.255.285 và số 0854.171.431, trước khi bán điện thoại cho anh B, L đã vứt đi trên đường đi về nhà và không xác định được vị trí vứt chiếc sim. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L đã ra thông báo truy tìm vật chứng đối với 01 (một) chiếc vỏ ốp điện thoại di động OPPO A71, màu tím và 02 (hai) chiếc sim điện thoại di động số 0345.255.285 và số 0854.171.431 mà Lại Văn L cướp giật của cháu Vi Thị H, nhưng đến nay chưa có kết quả nên chưa thu hồi được.

Về vật chứng của vụ án: Ngày 22/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 73/CSĐT trả lại chị Vi Thị H 01 (một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO, loại A71, màu hồng, có dán kính cường L.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Vi Thị H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị bồi thường. Anh Đinh Văn B không có yêu cầu đề nghị bồi thường.

Vụ thứ 3: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 29/7/2020, Lại Văn L điều khiển chiếc xe mô tô nêu trên đi theo hướng Tổ dân phố Mới, thị trấn Ch, huyện L để về nhà ở thôn Khả Lã 2, xã Tân Lập. Khi đi đến khu vực nhà văn hóa của Tổ dân phố Mới, thị trấn Ch, huyện L thì L phát hiện thấy phía trước cùng chiều có 03 (ba) cháu nhỏ đang đi cùng trên 01 (một) chiếc xe đạp điện. Đó là các cháu: Lâm Trung H, sinh năm 2006, là người điều khiển xe; ngồi giữa là cháu La Tiến D, sinh năm 2007 và ngồi sau cùng là cháu La Văn Kh, sinh ngày 14 tháng 8 năm 2006, cùng trú tại Tổ dân phố Mới, thị trấn Ch, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Thấy cháu Kh ngồi sau trên tay cầm chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu HUAWEI, loại Y7 PRO, màu đen, bên trong có gắn 01 chiếc sim điện thoại số 0921.948.372. L điều khiển xe mô tô đi theo quan sát, khi đi qua nhà văn hóa của Tổ dân phố Mới, thị trấn Ch được khoảng 200m, thấy phía trước vắng người qua lại, L điều khiển xe từ phía sau lên áp sát xe của cháu H đang điều khiển và dùng tay phải giật lấy chiếc điện thoại di động cháu Kh đang cầm trên tay. Sau đó, L điều khiển xe tăng ga bỏ chạy theo hướng tổ dân phố Nhập Thành, thị trấn Ch, huyện L. Cháu Kh bị giật mất điện thoại nên đã nhảy xuống xe và đuổi theo L nhưng không kịp. Còn L sau khi cướp giật được chiếc điện thoại đã đem đến cửa hàng sửa chữa điện thoại “Quang Bách” do anh Đinh Văn B, sinh năm 1983, trú tại Tổ dân phố M, thị trấn Ch, huyện L bán được số tiền 200.000 đồng. Số tiền trên L đã tiêu sài cá nhân hết. Trước khi bán điện thoại cho anh B, L đã tháo 01 (một) chiếc sim trong điện thoại vừa cướp giật được ra và vứt đi trên đường đi bán điện thoại.

Ngày 15/8/2020, cháu La Văn Kh có đơn trình báo gửi Công an huyện L .

Ngày 14/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện L ra yêu cầu định giá tài sản số 703/CSĐT đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu HUAWEI, loại Y7 PRO, màu đen và 01 (một) chiếc sim điện thoại số 0921.948.372. Tại bản kết luận định giá tài sản số 152/KL-HĐ ngày 15/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện L kết luận: 01 (một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu HUAWEI, loại Y7 PRO, màu đen, có giá trị ở thời điểm bị chiếm đoạt 2.400.000 đồng và số tiền khôi phục 01 (một) chiếc sim điện thoại số 0921.948.372 là 25.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 2.425.000 đồng.

Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu HUAWEI, loại Y7 PRO, màu đen, sau khi mua lại của L, anh Đinh Quang B đã bán cho một người khách hàng không quen biết và 01 (một) chiếc sim điện thoại số 0921.948.372, trước khi bán điện thoại cho anh B, L đã vứt đi trên đường đi bán điện thoại và không xác định được vị trí vứt chiếc sim. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L đã ra thông báo truy tìm vật chứng đối với toàn bộ tài sản mà Lại Văn L cướp giật của cháu La Văn Kh nhưng đến nay chưa thu hồi được.

Về trách nhiệm dân sự: Cháu La Văn Kh và người đại diện hợp pháp của cháu Khải yêu cầu Lại Văn L bồi thường theo quy định pháp luật. Anh Đinh Quang B không có yêu cầu đề nghị bồi thường.

Vụ thứ 4: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 01/8/2020, Lại Văn L điều khiển chiếc xe mô tô nêu trên đi từ nhà ở Thôn Kh, xã T, huyện L sang thị trấn Ch, huyện L. Khi đi đến cây xăng “Lan Đạo” thuộc địa phận Tổ dân phố Mới, thị trấn Ch, huyện L thì L r vào định đổ xăng xe nhưng lúc này phát hiện thấy chị Đào Ngọc A, sinh năm 1994, trú tại Thôn Sàng Nội, xã Tân Quang, huyện L đang đứng ở rìa đường trước cửa cây xăng cùng một nhóm công nhân vừa đi làm về. Trên tay chị A đang cầm 01 (một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu VIVO, loại Y19, màu xanh ngọc, có ốp lung bằng nhựa màu tím, bên trong lắp 02 (hai) sim điện thoại số 0989.595.432 và số 0364.345.601. L không đổ xăng nữa mà điều khiển xe đi từ trong cây xăng ra, từ từ tiến sát vị trí đứng của chị A và dùng tay phải giật lấy chiếc điện thoại di động của chị A đang cầm trên tay, rồi L tăng ga bỏ chạy. Khi bị giật mất điện thoại, chị A hô hoán và đuổi theo L nhưng không đuổi kịp. Sau khi giật được điện thoại di động của chị A, L điều khiển xe mô tô bỏ chạy theo hướng xã H, huyện L. Khi đi đến khu vực gần ngã 3 Kép, xã H, L vào cửa hàng mua bán, sửa chữa điện thoại di dộng “M” tại thôn K, xã H, huyện L của anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1985, trú tại thôn Giáp Hạ, xã Thanh Hải, huyện L bán được số tiền 2.000.000 đồng. Số tiền trên L đã tiêu sài cá nhân hết. Trước khi bán điện thoại cho anh Q, L đã tháo 01 (một) chiếc vỏ ốp điện thoại và 02 (hai) sim trong điện thoại vừa cướp giật được ra và vứt đi trên đường về nhà sau khi bán được điện thoại.

Ngày 01/8/2020, chị Đào Ngọc A có đơn trình báo gửi Công an huyện L.

Ngày 05/8/2020 và ngày 14/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện L ra yêu cầu định giá tài sản đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu VIVO, loại Y19, màu xanh ngọc; 01 (một) chiếc ốp vỏ điện thoại bằng nhựa, màu tím và 02 (hai) sim điện thoại số 0989.595.432 và số 0364.345.601. Tại bản kết luận định giá tài sản số 119/KL-HĐ ngày 07/8/2020 và số 153/KL-HĐ ngày 16/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện L kết luận:

01 (một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu VIVO, loại Y19, màu xanh ngọc, có giá trị ở thời điểm bị chiếm đoạt 4.000.000 đồng và 01 (một) chiếc vỏ ốp điện thoại bằng nhựa, có giá trị ở thời điểm bị chiếm đoạt là 50.000 đồng; số tiền khôi phục 02 (hai) chiếc sim điện thoại số 0989.595.432 và số 0364.345.601 là 50.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 4.100.000 đồng.

Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu VIVO, loại Y19, màu xanh ngọc, sau khi mua lại của L, anh Nguyễn Văn Q đã bán cho một người khách hàng không quen biết và 02 (hai) chiếc sim điện thoại số 0989.595.432 và số 0346.345.601, trước khi bán điện thoại cho anh Q, L đã vứt đi trên đường đi bán điện thoại và không xác định được vị trí vứt chiếc sim. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L đã ra thông báo truy tìm vật chứng đối với toàn bộ tài sản mà Lại Văn L cướp giật của Đào Ngọc A, nhưng đến nay chưa có kết quả nên chưa thu hồi được.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Đào Ngọc A yêu cầu Lại Văn L bồi thường lại tài sản đã cướp giật theo quy định pháp luật. Anh Nguyễn Văn Q không có yêu cầu bồi thường..

Vụ thứ 5: Khoảng 09 giờ ngày 09/8/2020, Lại Văn L điều khiển chiếc xe mô tô trên đi từ nhà ở Thôn Kh, xã T, huyện L sang ngã tư cơ khí thuộc địa phận thị trấn Ch, huyện L để chạy xe ôm. L đứng đợi ở ngã tư cơ khí, thị trấn Ch được khoảng 15 phút không thấy có khách nên L đã điều khiển xe mô tô lên khu vực Phố K, xã H, huyện L và dừng lại trước cửa hàng bán gạch ốp lát, vật liệu xây dựng “Cánh Mến” địa chỉ tại Phố K, xã H, huyện L rồi nằm nghỉ ở trên xe đợi khách. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, L dậy và điều khiển xe mô tô đi hướng xã Biên Sơn, huyện L để tìm khách đi xe ôm. Khi đi đến khu vực gần cổng làng thôn Trong, xã H, huyện L thì L phát hiện thấy 01 (một) cháu gái, đang đ xe đạp điện ở rìa đường, trên tay sử dụng điện thoại di động. Đó là cháu Trần Hương G, sinh ngày 10 tháng 10 năm 2004, trú tại thôn Sàng Nội, xã Tân Quang, huyện L đang sử dụng chiếc điện thoại nhãn hiệu VIVO, loại Y11, màu xanh ngọc, vỏ ốp điện thoại bằng nhựa, màu đen trắng, bên trong điện thoại có lắp 2 sim điện thoại gồm sim điện thoại số 0327.939.593 và số 0867.519.473. Lúc này thấy trên đường vắng v nên L nảy sinh ý định cướp giật chiếc điện thoại di động của cháu G. L điều khiển xe mô tô đi từ phía sau đến, áp sát và dùng tay phải giật lấy chiếc điện thoại cháu G đang cầm trên tay rồi tăng ga bỏ chạy theo hướng vào thôn Trong, xã H, huyện L. Lúc này, có anh L Văn Cường, sinh năm 1995, trú tại thôn Cầu Mùng, xã Kiên Thành, huyện L đi từ phía sau nhìn thấy sự việc có đi đến chỗ cháu G hỏi thăm sự việc và đuổi theo L nhưng không đuổi kịp. Sau khi cướp giật được tài sản, L tiếp tục điều khiển xe đi qua ngã ba thôn Bãi Bông, xã H rồi đi ra Quốc lộ 31 hướng đi thị trấn Ch, huyện L thì r vào cửa hàng mua bán, sửa chữa điện thoại di dộng “M” tại thôn K, xã H, huyện L do anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1985, trú tại thôn Giáp Hạ, xã Thanh Hải, huyện L. Tại đây, L lấy chiếc điện thoại vừa cướp giật ra xem thì thấy điện thoại bị khóa màn hình và hỏi anh Q mở khóa chiếc điện thoại trên nhưng anh Q nói tiền mở khóa bằng tiền máy nên L không thay mà bán lại cho anh Q được số tiền 1.000.000 đồng. Khi bán điện thoại cho anh Q, L đã tháo 02 (hai) chiếc sim điện thoại trong máy vừa cướp giật được ra và bẻ gãy rồi bỏ vào thùng rác chỗ anh Q ngồi và tháo chiếc vỏ ốp vỏ điện thoại màu đen trắng cầm theo đi về. Trên đường về, L đã vứt chiếc ốp vỏ điện thoại ở ven đường. Số tiền bán điện thoại L đã chi tiêu cá nhân hết số tiền 385.000 đồng.

Ngày 09/8/2020, cháu Trần Hương G có đơn trình báo gửi Công an huyện L. Cùng ngày, Cơ quan CSĐT – Công an huyện L đã ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Lại Văn L. Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L, L đã giao nộp số tiền 615.000 đồng còn lại sau khi bán chiếc điện thoại cướp giật được của cháu Trần Hương G và 01 (một) chiếc quần bò màu xanh.

Ngày 09/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện L đã tạm giữ 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu VIVO Y11, màu xanh ngọc, có số imei1 là 868613046547973 và số imei2 là 868613046547965 do anh Nguyễn Văn Q giao nộp.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện L đã tiến hành khám xét khẩn cấp ch ở của Lại Văn L tại Thôn Kh, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Kết quả khám xét thu giữ 01 (một) xe mô tô, nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE, màu sơn trắng, có số khung RLHHC1251FY119100, số máy đã bị đục; 01 (một) mũ bảo hiểm chất liệu bằng nhựa, màu đen, có sọc kẻ xanh trắng hồng dọc mũ; 01 (một) khẩu trang màu đen; 01 (một) áo phông màu đen, có cổ, phần ngực áo có họa tiết màu trắng.

Đối với 02 (hai) chiếc sim điện thoại số 0327.939.593 và số 0867.519.473, khi bán điện thoại cho anh Q, L đã tháo 02 (hai) chiếc sim ra bẻ gãy và bỏ vào thùng rác tại quán điện thoại của anh Q. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L đã ra thông báo truy tìm vật chứng đối với 02 (hai) chiếc sim điện thoại số 0327.939.593 và số 0867.519.473 mà Lại Văn L cướp giật của Trần Hương G. Kết quả đã tìm thấy 04 (bốn) mảnh sim của 02 (hai) sim điện thoại trên tại thùng rác tại cửa hàng điện thoại của anh Q.

Ngày 11/8/2020 và ngày 14/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện L ra yêu cầu định giá tài sản đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu VIVO, loại Y11, màu xanh ngọc; 01 (một) chiếc vỏ ốp điện thoại bằng nhựa, màu đen trắng và 02 (hai) sim điện thoại số 0327.939.593 và số 0867.519.473. Tại bản kết luận định giá tài sản số 121/KL-HĐ ngày 11/8/2020 và số 154/KL-HĐ ngày 16/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện L kết luận: 01 (một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu VIVO, loại Y11, màu xanh ngọc, có giá trị ở thời điểm bị chiếm đoạt 2.400.000 đồng; 01 (một) chiếc vỏ ốp điện thoại bằng nhựa, màu đen trắng, có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 30.000 đồng và số tiền khôi phục 02 (hai) chiếc sim điện thoại số 0327.939.593 và số 0867.519.473 là 50.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 2.480.000 đồng .

Ngày 22/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 73/CSĐT trả lại cháu Trần Hương G 01(một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu VIVO, loại Y11, màu xanh ngọc.

Đối với 01 (một) chiếc vỏ ốp điện thoại bằng nhựa, màu đen trắng, sau khi bán điện thoại cho anh Q, L đã cầm về và vứt đi trên đường về nhà và không xác định được vị trí vứt chiếc ốp. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L đã ra thông báo truy tìm vật chứng đối với 01 (một) chiếc vỏ ốp điện thoại bằng nhựa, màu đen trắng, mà Lại Văn L cướp giật của Trần Hương G, nhưng đến nay chưa có kết quả nên chưa thu hồi được.

Về trách nhiệm dân sự: Cháu Trần Hương G đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị bồi thường.

Đối với anh Đinh Văn B là người mua chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 7Plus 32GB, màu đen do L cướp giật của chị Vũ Thị H; chiếc điện thoại nhãn hiệu Ooppo A71, màu đen do L cướp giật của cháu Vi Thị H và chiếc điện thoại HUAWEI, loại Y7 PRO, màu đen do L cướp giật của cháu La Văn Kh. Anh Nguyễn Văn Q là người mua chiếc điện thoại nhãn hiệu VIVO, loại Y19, màu xanh ngọc do L cướp giật được của chị Đào Ngọc A; chiếc điện thoại nhãn hiệu VIVO, loại Y11, màu xanh ngọc do Lại cướp giật của cháu Trần Hương G mang đến bán. Quá trình điều tra xác định khi mua những chiếc điện thoại trên cả anh B và anh Q đều không biết đó tài sản do L phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không đặt ra xem xét xử lý là có căn cứ.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave, màu trắng, không gắn biển số thu giữ trong quá trình khám xét ch ở của Lại Văn L, là phương tiện L sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. L khai nhận mua của một người đàn ông tên Hùng tại huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang với giá 1.000.000 đồng. Ngày 10/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện L đã ra Quyết định trưng Cầu Phòng kỹ thuật hình sự số 246/CSĐT giám định số khung, số máy của xe mô tô, nhãn hiệu Honda, loại xe Wave , không gắn biển số.

Tại bản kết luận giám định số 1465/KL-KTHS kết luận: “Dãy số khung RLHHC1251FY119100 không bị hàn ghép, tẩy xóa đóng đục lại. Dãy số máy bị tẩy xóa, không xác định được số nguyên thủy.” Tiến hành tra cứu tại Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện L xác định chủ sở hữu chiếc xe mô tô trên là chị Đàm Thị T, sinh năm 1996, trú tại thôn Kép 3, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang, biển số xe đăng ký là 98E1-430.33. Tuy nhiên, chị Tích cho biết chiếc xe trên của chị đã bị k gian trộm mất vào ngày 08/6/2020, sau khi bị mất chị không trình báo sự việc cho cơ quan Công an. Do chưa xác minh, làm r được về nguồn gốc chiếc xe mô tô trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện L tách ra để tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

Số vật chứng còn lại đang được tạm giữ tại kho vật chứng Công an huyện L gồm: Số tiền 615.000 đồng hiện đang được gửi ở tài khoản tạm giữ của Công an huyện L tại Kho bạc nhà nước huyện L; 01 (một) mũ bảo hiểm chất liệu bằng nhựa, màu đen, có sọc kẻ xanh trắng hồng dọc mũ; 01 (một) khẩu trang màu đen;

01 (một) áo phông màu đen, có cổ, phần ngực áo có họa tiết màu trắng; 01 (một) quần bò xanh; 04 (bốn) mảnh sim của hai sim điện thoại đang được tạm giữ tại kho tang vật của Công an huyện L Ngạn, được chuyển đến kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện L để giải quyết theo quy định.

Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2021/HS-ST ngày 12/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang đã căn cứ vào căn cứ điểm d, g khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật hình sự. Khoản 2 Điều 136; Điều 333 và Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự; xử phạt: Lại Văn L 07 (Bẩy) năm tù về tội “Cướp gật tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 09/8/2020.

Ngoài ra án còn tuyên về trách nhiệm bồi thường dân sự, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo cho bị cáo và người liên quan.

Án xử xong, ngày 23/01/2021, các bị cáo Lại Văn L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ với lý do: bố của bị cáo bị địch bắt tù đày tại trại giam Phú Quốc, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã tác động đến gia đình nộp toàn bộ khoản tiền bị cáo phải bồi thường cho người bị hại; khoản tiền phải nộp án phí HSST, án phí DSST theo Bản án hình sự sơ thẩm đã tuyên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, có quan điểm: trước khi xét xử phúc thẩm bị cáo đã tác động đến gia đình nộp toàn bộ khoản tiền bị cáo phải bồi thường cho người bị hại; khoản tiền phải nộp án phí HSST, án phí DSST theo Bản án hình sự sơ thẩm đã tuyên. Ngoài ra, bố của bị cáo là ông Lại Hỏa Sinh có tham gia kháng chiến và bị địch bắt tù đày tại trại giam Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; án sơ thẩm xử phạt bị cáo là đúng người đúng tội, như có phần nghiêm khắc. Tại cấp phúc thẩm bị cáo có thêm tình tiết mới, cho nên đề nghị HĐXX cần chấp nhận kháng cáo và giảm hình phạt xuống 05 năm tù cho bị cáo. Ngoài ra còn đề nghị giải quyết về án phí, trách nhiệm dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: đơn kháng cáo các của các bị cáo đã được làm trong thời hạn quy định của pháp luật theo đúng quy định tại Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp. HĐXX chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của các bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo:

Trong khoảng thời gian từ ngày 22/7/2020 đến ngày 09/8/2020, Lại Văn L đã 05 lần thực hiện hành vi 05 (năm) vụ cướp giật tài sản (đều điện thoại di động) trên địa bàn huyện L, tỉnh Bắc Giang. Hội đồng định giá tài sản huyện L đã kết luận tổng trị giá tài sản tại thời điểm bị cáo Lại Văn L chiếm đoạt là 15.930.000 đồng. Trong đó có 03 lần L thực hiện hành vi cướp giật tài sản khi người bị hại đang ngồi trên phương tiện lưu thông trên đường và 02 lần thực hiện hành vi cướp giật tài sản của người dưới 16 tuổi.

Như vậy hành vi nêu trên của bị cáo Lại Văn L đã cấu thành tội “ Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d, g khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự, Bản án sơ thẩm tuyên phạt các bị cáo như vậy là đúng người, đúng tội.

[3] Xét nội dung kháng cáo của các bị cáo thấy:

Án sơ thẩm căn cứ tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ xử phạt bị cáo Lại Văn L 07 (Bẩy) năm tù về tội “Cướp gật tài sản” là có căn cứ đúng pháp luật, bởi lẽ hành vi phạm tội của bị cáo với lỗi cố ý, rất nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật an ninh ở địa phương xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của nhiều người, gây tâm lý hoang mang, lo lắng cho người dân nên phải áp dụng mức hình phạt nghiêm tương xứng để dăn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Nay bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử thấy tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo tiếp tục có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải. Trước khi xét xử phúc thẩm bị cáo đã tác động đến gia đình nộp toàn bộ khoản tiền tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L mà bị cáo phải bồi thường cho người bị hại ( cho cháu La Văn Kh, do chị Đ Thị Thành đại diện là 2.425.000 đồng; cho chị Đào Ngọc A 6.525.000đồng); và khoản tiền phải nộp án phí HSST, án phí DSST ( tổng số là 526.000 đồng) theo Bản án hình sự sơ thẩm đã tuyên. Ngoài ra, bố của bị cáo là ông Lại Hỏa Sinh có tham gia kháng chiến và bị địch bắt tù đày tại trại giam Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự và án sơ thẩm xử phạt bị cáo là đúng người đúng tội, nhưng có phần nghiêm khắc. Tại cấp phúc thẩm bị cáo có thêm tình tiết mới, cho nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận kháng cáo và giảm hình phạt cho bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận, bị cáo không phải chịu án phí HSPT.

[5] Về trách nhiệm dân sự, án phí HSST, DSST: bị cáo đã nộp đủ số tiền bồi thường cho người bị hại tại; nộp tiền án phí HSST và DSST tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L theo bản án sơ thẩm đã tuyên, cần xác nhận cho bị cáo đã nộp xong.

[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét giải quyết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa án sơ thẩm.

[1] Áp dụng điểm d, g khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt: Lại Văn L 05 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 09/8/2020.

[2] Về án phí phúc thẩm: bị cáo không phải chịu án phí HSPT.

[3] Xác nhận bị cáo đã nộp xong khoản tiền bồi thường cho 02 người bị hại: cho cháu La Văn Kh, do chị Đ Thị Thành đại diện là 2.425.000 đồng; cho chị Đào Ngọc A là 6.525.000đồng); và khoản tiền phải nộp án phí HSST, án phí DSST ( tổng số là 526.000 đồng).

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2021/HS-PT ngày 12/05/2021 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:59/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về