Bản án 59/2021/HNGĐ-ST ngày 26/04/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 59/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG  

Ngày 26 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 05/2021/HNGĐ- ST về việc '' Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung " theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 23 tháng 3 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 46/2021/QĐ-ST ngày 07/4/2021 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Phan Thị Thanh H, sinh ngày 25/9/1996.

Địa chỉ : Thôn Đ, xã N, huyện S, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).

2. Bị đơn : Anh Vương Văn B, sinh ngày 23/5/1997.

Nơi cư trú trước khi xuất cảnh : Thôn Đ, xã N, huyện S, tỉnh Hải Dương.

Hiện đang lao động tại Hàn Quốc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai - Nguyên đơn chị Phan Thị Thanh H trình bầy: Chị và anh B được tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện S, tỉnh Hải Dương ngày 17 tháng 8 năm 2017. Sau ngày cưới vợ chồng sinh sống tại gia đình chồng ở xã N, huyện S. Vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 1 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên xảy ra xô xát, tuy nhiên chưa phải nhờ đến hòa giải của thôn. Đến tháng 3/2019 anh B đi nước ngoài lao động, thời gian đầu vợ chồng thường xuyên liên lạc, đến tháng 9/2020 thông qua mạng xã hội chị được biết anh B có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, chị có hỏi anh B về mối quan hệ này, anh B đã thừa nhận. Đầu năm 2021 chị đưa con ra ngoài ở riêng. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh B.

Về con chung: chị và anh B có một con chung là Vương Trường G, sinh ngày 06/4/2018. Hiện nay cháu G đang ở với chị, ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con. Lúc đầu chị yêu cầu anh B phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung là 2.000.000đ/tháng. Sau đó chị có quan điểm đề nghị anh B cấp dưỡng tiền nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung, nợ chung : Vợ chồng không có, ly hôn không đề nghị Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án do chị H không cung cấp được địa chỉ của anh Vương Văn B tại Hàn Quốc nên Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã lấy lời khai của ông Vương Văn S và bà Nguyễn Thị X là bố mẹ đẻ anh B, đồng thời yêu cầu ông S, bà X cung cấp địa chỉ của anh B ở nước ngoài. Ông S, bà X xác định anh B hiện đang du học tại Hàn Quốc, ông bà không biết địa chỉ của anh B ở nước ngoài nên không thể cung cấp cho Tòa án. Tuy nhiên anh B thường xuyên liên lạc về cho gia đình, ông bà đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh B biết. Sau khi nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, bà X xác định đã thông tin cho anh B biết. Anh B có quan điểm do chị H tự ý bỏ đi và kiên quyết làm đơn ly hôn nên anh cũng đồng ý, đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt anh. Về con chung: Anh B có nguyện vọng được nuôi con Vương Trường G, anh tự nguyện không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng tiền nuôi con, anh ủy quyền cho bố mẹ thay anh chăm sóc cháu G. Trường hợp chị H nuôi con, do hiện nay anh đang du học, chưa có công việc nên không có khả năng cấp dưỡng tiền nuôi con 2.000.000đồng như yêu cầu của chị H. Về tài sản chung, nợ chung không có, ly hôn anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn cơ bản đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn của chị H và anh B đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị H được ly hôn anh B; về con chung: giao cháu Vương Trường G, sinh ngày 06/4/2018 cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh B phải có trách nhiệm cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị H theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị H không cung cấp được địa chỉ của anh B tại Hàn Quốc. Theo hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã hai lần yêu cầu gia đình anh B cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Do vậy áp dụng công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục cố tình giấu địa chỉ.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị H có quan điểm xin được xét xử vắng mặt. Do vậy căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị Thanh H và anh Vương Văn B tự do tìm hiểu có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện S, tỉnh Hải Dương ngày 17 tháng 8 năm 2017, do vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Sau ngày cưới vợ chồng sống hạnh phúc được một năm thì phát sinh mâu thuẫn. Đến tháng 3/2019 anh B sang Hàn Quốc du học, thời gian đầu vợ chồng có liên lạc, nhưng sau đó do bất đồng quan điểm, hai bên nghi ngờ sự chung thủy của nhau dẫn đến mâu thuẫn trở nên trầm trọng. Đầu năm 2021 chị H đã dọn ra ngoài ở, vợ chồng không còn liên lạc với nhau. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn. Thông qua gia đình, anh B có quan điểm đồng ý ly hôn với chị H. Xét thấy, thực tế cả hai đều xác định không còn tình cảm vợ chồng, hai bên không tìm thấy tiếng nói chung, nên có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy, có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H.

- Về con chung: Chị Phan Thị Thanh H và anh Vương Văn B có một con chung là Vương Trường G, sinh ngày 06/4/2018, hiện nay cháu G đang ở với mẹ. Ly hôn chị H và anh B đều có nguyện vọng được nuôi con. Xét thực tế cháu G còn nhỏ, ở với mẹ từ bé, hiện tại anh B đang ở nước ngoài nên để đảm bảo sự ổn định của cháu cần tiếp tục giao con cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật. Anh B không trực tiếp nuôi dưỡng cháu G nên phải có trách nhiệm cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị H theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

[3].Về án phí: Chị Phan Thị Thanh H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, anh Vương Văn B phải chịu án phí cấp dưỡng tiền nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phan Thị Thanh H được ly hôn anh Vương Văn B.

2.Về con chung: Giao con chung Vương Trường G, sinh ngày 06/4/2018 cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu G tròn 18 tuổi. Anh B phải có trách nhiệm cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị H là 1.000.000đ/ tháng kể từ tháng 4/2021 cho đến khi cháu G tròn 18 tuổi.

Anh B được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi Bnh án có đơn yêu cầu thi Bnh án mà người phải thi Bnh án không thi Bnh các khoản tiền trên thì phải chịu lãi đối với số tiền chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự. Nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của bộ luật dân sự.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

4. Về án phí: Chị Phan Thị Thanh H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp, theo biên lai thu số AA/2018/0004833 ngày 04 tháng 01 năm 2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Chị H đã nộp đủ án phí.

Anh Vương Văn B phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Phan Thị Thanh H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Anh Vương Văn B được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2021/HNGĐ-ST ngày 26/04/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:59/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về