Bản án 59/2021/DS-ST ngày 24/06/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 59/2021/DS-ST NGÀY 24/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 24 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ ánhân dân sự thụ lý số:23/2021/TLST-DS ngày 13/01/2021 về việc “tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 109/2021/QĐXXST-DS ngày 17 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần S Địa chỉ trụ sở: đường N, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Khắc V, là chuyên viên quản lý nợ của Ngân hàng Thương mại cổ phần S – Chi nhánh Sóc Trăng (theo văn bản ủy quyền ngày 24/6/2021 - có mặt).

Địa chỉ: đường T, phường 2, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Thế N, (vắng mặt).

Địa chỉ cư trú: đường Q, khóm 3, phường 10, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 26/10/2020 của Ngân hàng Thương mại cổ phần S, cũng như tại phiên toà sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Khắc V trình bày:

Ngày 05/4/2016, ông Nguyễn Thế N với Ngân hàng Thương mại cổ phần S có ký hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm giấy đề nghị cấp thể tín dụng kiêm hợp đồng và bảng điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của ngân hàng), mục đích tiêu dùng cá N. Ngân hàng đã cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 15.000.000 đồng, loại thẻ Motor Card, số thẻ 356480-9396, lãi suất áp dụng 2.5%/tháng.

Sau khi được cấp thẻ tín dụng, ông Nguyễn Thế N đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 68.900.000 đồng và đã thanh toán cho Ngân hàng được 75.217.000 đồng. Do ông Nguyễn Thế N không có thiện chí trả nợ và đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ngày 01/6/2020 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Ngân hàng đã chuyển 10.544.783 đồng sang làm nợ gốc, áp dụng lãi suất quá hạn là 150% của lãi suất được công bố và áp dụng tại thời điểm hiện tại.

Tính đến ngày 24/6/2021, ông Nguyễn Thế N còn nợ Ngân hàng số tiền là 15.603.035 đồng, gồm 10.544.783 đồng nợ gốc và 5.058.252 đồng lãi quá hạn.

Nay Ngân hàng Thương mại cổ phần S yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Thế N trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần S số tiền còn nợ tính đến ngày 24/6/2021 là 15.603.035 đồng, gồm 10.544.783 đồng nợ gốc và 5.058.252 đồng lãi quá hạn và yêu cầu tiếp tục tính tiền lãi phát sinh theo lãi suất của hợp đồng cho đến khi trả dứt nợ.

Trong quá trình giải quyết vụ án phía bị đơn là ông Nguyễn Thế N đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, nhưng ông Nguyễn Thế N không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án cũng đã triệu tập hợp lệ ông Nguyễn Thế N để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, cũng như tham gia phiên Tòa, nhưng ông Nguyễn Thế N đều vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa hôm nay, vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước khi Hội đồng xét xử tiến hành nghị án, những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự về trình tự, thủ tục tố tụng. Đối với những người tham gia tố tụng thì trước và tại phiên tòa hôm nay chấp hành đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa sơ thẩm Hội đồng xét xử, thư ký thực hiện đúng trình tự thủ tục tại phiên tòa. Đối với bị đơn là ông Nguyễn Thế N đã không chấp hành việc có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.

Về nội dung, Vị đại diện Viện kiểm sát nêu quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về sự vắng mặt của bị đơn là ông Nguyễn Thế N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để tiếp tục xét xử vắng mặt ông N.

[2] Về tính hợp pháp của hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm giấy đề nghị cấp thể tín dụng kiêm hợp đồng và bảng điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của ngân hàng) ngày 05/4/2016: Ngân hàng Thương mại cổ phần S ký kết hợp đồng với ông Nguyễn Thế N. Các bên đều có đủ tư cách chủ thể, có đủ năng lực hành vi dân sự nên chủ thể tham gia ký kế hợp đồng là hợp pháp. Hợp đồng được lập thành văn bản các bên đều tự nguyện ký tên, đóng dấu xác nhận nên hình thức hợp đồng hợp pháp. Các đương sự thỏa thuận về toàn bộ các điều khoản trong nội dung hợp đồng, tự nguyện ký kết, không bị lừa dối ép buộc nên nội dung hợp đồng là hợp pháp.

[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả số tiền vốn, lãi là 15.603.035 đồng: Thấy rằng, tại giấy đề nghị cấp thể tín dụng kiêm hợp đồng và bảng điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của ngân hàng ngày 05/4/2016 thì phía Ngân hàng đã cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 15.000.000 đồng, loại thẻ Motor Card, số thẻ 356480-9396, lãi suất áp dụng 2.5%/tháng, mục đích tiêu dùng cá N.

Sau khi được cấp thẻ tín dụng, ông Nguyễn Thế N đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 68.900.000 đồng và đã thanh toán cho Ngân hàng được 75.217.000 đồng. Do ông N không có thiện chí trả nợ và đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán thẻ nên ngày 01/6/2020 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn.

[4] Do bị đơn không có ý kiến bằng văn bản gửi Tòa án, không có nộp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ khẳng định: Bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền tính đến ngày 24/6/2021 là 15.603.035 đồng.

[5] Đối với yêu cầu tiếp tục tính lãi phát sinh từ ngày 25/6/2021 đến khi ông N trả hết nợ theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, xét yêu cầu này là phù hợp với thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng mà các bên đã ký kết cũng như theo quy định tại Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà hôm nay là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Thế N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ: Điều 465, Điều 466, Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015;

- Căn cứ: Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng;

- Căn cứ: Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án;

Tuyên xử:

1. Buộc ông Nguyễn Thế N trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần S số tiền vốn còn nợ là 10.544.783 đồng và tiền lãi tính đến ngày 24/6/2021 là 5.058.252 đồng. Tổng cộng cả vốn và lãi là 15.603.035 đồng.

Kể từ ngày 25/6/2021, ông Nguyễn Thế N còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm giấy đề nghị cấp thể tín dụng kiêm hợp đồng và bảng điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của ngân hàng) ngày 05/4/2016 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Ông Nguyễn Thế N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 780.152 đồng.

- Ngân hàng Thương mại cổ phần S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần S số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 305.400 đồng theo biên lai số 0004964 ngày 29/12/2020 của Chi cục thi hành ánhân dân sự thành phố S.

3. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn thì thời hạn kháng cáo nêu trên được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành ánhân dân sự (sửa đổi, bổ sung) thì người được thi hành ánhân dân sự, người phải thi hành ánhân dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và 9 Luật thi hành ánhân dân sự (sửa đổi, bổ sung); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành ánhân dân sự (sửa đổi, bổ sung).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2021/DS-ST ngày 24/06/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:59/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về