Bản án 59/2020/HNGĐ-ST ngày 29/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 59/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 29 tháng 7 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 126/2020/TLST-HNGĐ, ngày 24 tháng 4 năm 2020, về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 134/2020/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 169/2020/QĐST- HNGĐ ngày 10/7/2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Thùy T, sinh năm 1999;

Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre, có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 10/7/2020.

Bị đơn: Anh Nguyễn Quang Th, sinh năm 1994;

Địa chỉ: ấp P, xã A, huyện Mỏ Cày N, tỉnh Bến Tre, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để xét xử nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, nguyên đơn chị Đặng Thị Thùy T trình bày:

Chị Đặng Thị Thùy T và anh Nguyễn Quang Th tự nguyện kết hôn vào năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre.

Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc một thời gian ngắn thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau, gia đình hai bên đã nhiều lần hòa giải nhằm hàn gắn nhưng không có kết quả, vợ chồng ly thân từ cuối năm 2019 đến nay.

Trong thời gian sống chung, vợ chồng chị có một con chung tên Nguyễn Đặng Thế H, sinh ngày 27 tháng 10 năm 2016, hiện đang sống chung với chị T.

Tài sản chung, nợ chung không có.

Do vợ chồng chị không còn tình cảm yêu thương nhau nữa nên chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Th, chị không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ chồng.

Về con chung: Chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Nguyễn Quang Th vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại bản tự khai, anh Th trình bày: Anh Th và chị T tự nguyện kết hôn năm 2017, vợ chồng anh có một con chung tên Nguyễn Đặng Thế H, sinh năm 2016.

Tài sản chung và nợ chung : Không có.

Nay chị T yêu cầu ly hôn, anh Thịnh không đồng ý ly hôn vì con anh còn quá nhỏ.

Phát biểu quan điểm về vụ án tại phiên tòa sơ thẩm, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam nhận định:

Về tố tụng:

Tòa án thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng và đầy đủ tư cách của những người tham gia tố tụng. Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng.

Về nội dung giải quyết: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, các điều 227, 228 và Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đặng Thị Thùy T.

Về con chung: Giao cho chị T được quyền trực tiếp nuôi con tên Nguyễn Đặng Thế H, sinh ngày 27/10/2016, anh Th không phải cấp dưỡng nuôi con do chị T không có yêu cầu.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không đề cập đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Đặng Thị Thùy T và nội dung tranh chấp cần phải giải quyết, Tòa án xác định đây là vụ án Hôn nhân và Gia đình về việc: “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” được quy định tại các điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và Khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân.

Theo xác nhận đề ngày 24 tháng 4 năm 2020 của Công an xã A, huyện M thì bị đơn Nguyễn Quang Th hiện đang đăng ký thường trú và cư trú tại ấp P, xã A, huyện M nên căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam theo trình tự sơ thẩm.

Xét thấy: Nguyên đơn Đặng Thị Thùy T có đơn xin xét xử vắng mặt và bị đơn Nguyễn Quang Th đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để xét xử nhưng anh T vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án căn cứ vào điểm b Khoản 2 Điều 227 và các khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự nêu trên.

[2] Về nội dung giải quyết:

Xem xét, giải quyết yêu cầu xin ly hôn của chị Đặng Thị Thùy T, Hội đồng xét xử xét thấy:

Chị Đặng Thị Thùy T và anh Nguyễn Quang Th tự nguyện kết hôn năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre nên hôn nhân của chị T và anh Th là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận.

Sau khi kết hôn, chị T và anh Th sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, không hàn gắn được và chị T khởi kiện xin ly hôn, nguyên nhân theo chị T nêu là do vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi nhau, gia đình hai bên đã hòa giải để hàn gắn nhiều lần nhưng không có kết quả.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tạo điều kiện hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh Th không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án cho thấy khả năng đoàn tụ giữa vợ chồng chị T và anh Th là không có và mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh Th đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trang. Các đương sự không có yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ chồng nên không xem xét.

Về con chung: Chị T và anh Th có một con chung tên Nguyễn Đặng Thế H, sinh ngày 27/10/2016, hiện đang sống chung với chị T. Chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, kể từ khi chị T và anh Th ly thân đến nay, cháu H do chị T trực tiếp nuôi. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên, Hội đồng xét xử giao cho chị T được quyền trực tiếp nuôi con là phù hợp. Chị T không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không đề cập đến.

[3] Về án phí: Chị Đặng Thị Thùy T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng.

Xét thấy quan điểm và đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm là phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điểm b Khoản 2 Điều 227, các khoản 1 và 3 Điều 228 và Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 24 và Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đặng Thị Thùy T.

Chị Đặng Thị Thùy Trang được ly hôn với anh Nguyễn Quang Th. Các đương sự không có yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ chồng.

Về con chung: Chị Đặng Thị Thùy T được quyền trực tiếp nuôi con tên Nguyễn Đặng Thế H, sinh ngày 27 tháng 10 năm 2016, hiện cháu H đang sống chung với chị T. Chị T không yêu cầu anh Nguyễn Quang T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không đề cập đến.

Về án phí: Chị Đặng Thị Thùy T phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí mà chị T đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0010390, ngày 24 tháng 4 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỏ Cày Nam là đủ.

Các đương sự đều vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ Bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 59/2020/HNGĐ-ST ngày 29/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:59/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về