Bản án 59/2020/HNGĐ-ST ngày 28/07/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 59/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 28 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xét xử công khai vụ án thụ lý số 858/2019/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2019 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình về ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 26/6/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 60/2020/QĐST - HNGĐ ngày 13/7/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phan Ngọc H, sinh năm 1982;

Địa chỉ: tổ 18, ấp Suối Cao B, xã Phước Đ, huyện GD, tỉnh TN; Tạm trú: ấp Lộc Th, xã LG, huyện ĐH, tỉnh LA.

Bị đơn: Anh Lê Quốc S, sinh năm 1980.

Địa chỉ: tổ 18, ấp Suối Cao B, xã Phước Đ, huyện GD, tỉnh TN.

Chị H có đơn xin vắng mặt, anh S vắng mặt không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 15/11/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Phan Ngọc H trình y:

Chị và anh Lê Quốc S chung sống như vợ chồng từ năm 2008, có tổ chức lễ cưới, hôn nhân tự nguyện có qua tìm hiểu trước, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Phước Đông, huyện GD, tỉnh TN. Sau khi cưới vợ chồng sinh sống tại nhà cha mẹ một của anh S. Vợ chồng sống hạnh phúc một thời gian đến đầu năm 2014 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do anh S không lo làm ăn, chăm sóc vợ con mà anh ham mê cờ bạc, tiền làm ra bao nhiêu anh đem đi cờ bạc hết, đến năm 2018 chị có khởi kiện xin ly hôn tại Tòa án, anh S có đến năn nỉ với chị và cam kết sẽ từ bỏ cờ bạc, chăm chỉ làm ăn; vì thế chị không khởi kiện nữa và rút lại đơn. Nhưng sau đó về nhà anh S không giữ lời hứa của mình mà tiếp tục còn cờ bạc, chị giận nên bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống từ năm 2018 cho đến nay vợ chồng ly thân. Trong thời gian ly thân anh S không quan tâm đến chị và cũng không bàn chuyện đoàn tụ. Nhận thấy tình cảm không còn nay chị yêu cầu xin ly hôn cùng anh S.

Về con chung: Có 02 (hai) con chung tên Lê Ngọc Quỳnh A, sinh ngày 20/11/2008 và con tên Lê Bảo A, sinh ngày: 30/3/2014. Hiện cả hai con đang sinh sống cùng với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục cả 02 (hai) con chung. Chị không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn, anh Lê Quốc S: Tòa án triệu tập hợp lệ để thu thập chứng cứ và hòa giải, nhưng anh S không đến và không có ý kiến bàng văn bản gửi cho Tòa án.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật và về việc giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa; việc chấp hành của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án đến khi vào nghị án thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Phan Ngọc H đối với anh Lê Quốc S theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Chị Phan Ngọc H được quyền tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên: Lê Ngọc Quỳnh A, sinh ngày 20/11/2008 và con tên Lê Bảo A, sinh ngày: 30/3/2014; theo quy định tại Điều 81, 82 của Luật hôn nhân và gia đình. Ghi nhận chị H không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu. Nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng: Tại phiên tòa nguyên đơn chị H có đơn xin vắng mặt; bị đơn anh S đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Nên vụ án vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung:

[1] Về hôn nhân: Theo chị H; nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do anh S, không quan tâm chăm sóc vợ con, không lo làm ăn ham mê cờ bạc, chị H có khuyên nhiều lần nhưng anh S không nghe, dẫn đến vợ chồng cãi vã nhau. Đến năm 2018 chị H về bên gia đình cha mẹ ruột sinh sống, từ đó vợ chồng sống ly thân đến nay. Trong thời gian Tòa án giải quyết vụ án anh S không gặp chị H để hàn gắn tình cảm vợ chồng, chứng tỏ anh S không có thiện chí để vợ chồng được đoàn tụ, mà bỏ mặc vợ con. Hơn nửa anh S được Tòa án triệu tập hợp lệ để thu thập chứng cứ, hòa giải và xét xử nhưng anh vẫn vắng mặt, nên tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh S ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H là có căn cứ phù hợp theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và Gia đình.

[2] Về con chung: Có 02 (hai) người con tên Lê Ngọc Quỳnh A, sinh ngày 20/11/2008 và con tên Lê Bảo A, sinh ngày: 30/3/2014, hiện đang sống chung với chị H, anh S không có ý kiến gì. Chị H yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung, chị không yêu cầu anh Siệt phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp theo quy định tại Điều 81, 82 của Luật hôn nhân và Gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận giao cho chị H tiếp tục được quyền nuôi dưỡng 02 (hai) con chung. Ghi nhận chị H không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng nuôi con.

[3] Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

[4] Về nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về án phí: Chị H phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào Điều 56, 81; 82 của Luật hôn nhân và Gia đình.

1. Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Phan Ngọc H đối với anh Lê Quốc S.

Chị Phan Ngọc H được ly hôn với anh Lê Quốc S.

Về con chung: Chị Phan Ngọc H được quyền tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 (hai) con tên Lê Ngọc Quỳnh A, sinh ngày 20/11/2008 và con tên Lê Bảo A, sinh ngày: 30/3/2014. Anh S không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh S có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

2. Án phí sơ thẩm: Chị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng). Ghi nhận chị H đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí sơ thẩm theo biên lai thu số 0009974 ngày 24-12-2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Gò Dầu được khấu trừ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án báo cho đương sự biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh. Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2020/HNGĐ-ST ngày 28/07/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:59/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về