Bản án 59/2020/HNGĐ-ST ngày 28/05/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 59/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 28 tháng 5 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 24/2019/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 01 năm 2020 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2020/QĐXX-ST ngày 22 tháng 4 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị C, sinh năm 1998 (có mặt) Địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau

2. Bị đơn: Anh Phạm Văn T, sinh năm 1984 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 4, xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Tại đơn khởi kiện ngày 09/01/2020 cũng như tại phiên tòa chị Lê Thị C trình bày: Chị Lê Thị C và anh Phạm Văn T tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau vào ngày 12/7/2018. Thời gian chung sống vợ chồng không hạnh phúc, thường hay cãi nhau làm phát sinh mâu thuẫn và ly thân từ tháng 01 cho đến nay. Xét thấy không thể tiếp tục chung sống với nhau nữa nên chị C yêu cầu được ly hôn với anh Phạm Văn T.

Con chung tên Phạm Trọng N, sinh ngày 20/10/2013 . Hiện con chung do chị C nuôi dạy. Khi ly hôn chị C yêu cầu tiếp tục nuôi dạy con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu tòa án giải quyết.

*Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau phát biểu quan điểm: Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án đã tuân thủ đúng theo quy định.

Về nội dung: Tại hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa thể hiện chị Lê Thị C và anh Phạm Văn T chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn là tuân thủ đúng quy định pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, chị C yêu cầu ly hôn với anh T. Do đó, áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử lý cho chị Lê Thị C và anh Phạm Văn T được ly hôn. Con chung giao chị C tiếp tục nuôi dạy cháu Phạm Trọng Nguyễn, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nợ chung không có nên không đề nghị xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Lê Thị C khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn là anh Phan Văn T. Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc ly hôn; Anh T có địa chỉ tại ấp 4, xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của chị C thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án có thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và có tống đạt hợp lệ cho anh T nhưng anh T không có ý kiến bằng văn bản đối với yêu cầu của chị C và vắng mặt không có lý do. Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử và có tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng này cho anh T nhưng anh T vắng mặt tại các lần xét xử không có lý do. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh T theo quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án:

[3] Về hôn nhân: Chị Lê Thị C và anh Phạm Văn T tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau vào ngày 12/7/2018. Tại đơn khởi kiện cũng như tại phiên tòa chị C cho rằng thời gian chung sống giữa anh chị xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, hôn nhân không hạnh phúc nên chị C yêu cầu ly hôn với anh T. Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa anh chị đã tuân thủ về điều kiện đăng ký kết hôn tại Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 8, 9 của Luật hôn nhân và gia đình nên được pháp luật thừa nhận là vợ chồng. Thời gian chung sống do bất đồng quan điểm, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân giữa chị C và anh T không đạt được nên anh chị đã ly thân từ tháng 01 năm 2020 đến nay mà không có thiện chí đoàn tụ. Xét thấy, trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành hòa giải để chị C và anh T có điều kiện gặp nhau thỏa thuận đoàn tụ gia đình nhưng không có kết quả do anh T vắng mặt tại các lần hòa giải, xét xử không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử lý cho chị Lê Thị C và anh Phạm Văn T được ly hôn là phù hợp.

[4] Về con chung: Chị C yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy cháu Phạm Trọng N, sinh ngày 20/10/2013. Xét thấy, cháu N hiện do chị C đang nuôi dưỡng, việc hoán đổi nuôi con sẽ làm ảnh hưởng đến tình cảm của cháu. Đồng thời, anh T không có ý kiến gì đối với yêu cầu nuôi con của chị C. Vì vậy, cần tiếp tục giao cháu Phạm Trọng N cho chị Lê Thị C tiếp tục nuôi dạy là phù hợp theo quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Đối với việc cấp dưỡng nuôi con chị C không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét là phù hợp.

[5] Về tài sản chung: Chị C xác định thời gian chung sống anh chị không có tài sản chung và không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét là phù hợp theo quy định tại Điều 59 luật hôn nhân gia đình.

[6] Về nợ chung: Chị C xác định chị và anh T không có nợ chung nên không yêu cầu giải quyết. Đng thời tại xác nhận ngày 09/01/2020, Ủy ban nhân dân xã T xác nhận chị C và anh T không bị ai thưa kiện về nợ tại địa phương. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Lê Thị C phải chịu án phí Theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 56, 81, 82, 83 của luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Về hôn nhân: Chị Lê Thị C và anh Phạm Văn T được ly hôn.

2. Về con chung: Giao con chung tên Phạm Trọng N, sinh ngày 20/10/2013 (giới tính nam) cho chị Lê Thị C tiếp tục nuôi dạy. Anh Phạm Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh T không trực tiếp nuôi dạy con chung nhưng anh có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung phù hợp với quy định của pháp luật.

3. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Lê Thị C phải nộp 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng). Vào ngày 09 tháng 01 năm 2020 chị C có dự nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0010872 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau nay được chuyển thu án phí.

4. Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Báo cho đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng anh T vắng mặt nên anh có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai bản án. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2020/HNGĐ-ST ngày 28/05/2020 về ly hôn

Số hiệu:59/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về