Bản án 59/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 59/2019/HS-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 22 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 79/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 357/2019/HSST- QĐ ngày 07 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Hoài N, sinh năm 1982, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở trước khi bị bắt: Số X, Ấp 1, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 07/12; Con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1955 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1957; Vợ: không rõ; Con: Nguyễn Minh K, sinh năm 2001.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 14/9/2018, bị cáo bị Công an xã Phú Xuân xử phạt hành chính 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo Quyết định số 11751/QĐ-XPVPHC (Đã nộp phạt).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/6/2019, chuyển tạm giam từ ngày 03/7/2019 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Chí Hòa, Công an Tp. Hồ Chí Minh.

(Bị cáo có mặt)

* Người liên quan:

1/ Ông Trần Văn P, sinh năm 1976 (Vắng mặt)

Trú tại: Ấp An Hòa, xã Tam Thôn Hiệp, huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh.

2/ Ông Lương Tấn H, sinh năm 1984 (Vắng mặt)

Trú tại: 871/24/14, Ấp 4, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè, Tp. Hồ Chí Minh.

3/ Ông Nguyễn Hồ Thanh L, sinh năm 1984 (Vắng mặt)

Trú tại: 37/4C, Ấp 4, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè, Tp. Hồ Chí Minh.

4/ Ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1977 (Vắng mặt)

Trú tại: 12, Ấp 3, xã Long Thới, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.

5/ Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1955.

Trú tại: 13/4 Ấp 1, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 08 giờ 05 phút ngày 24/6/2019, tại chân cầu Mương Chuối thuộc Ấp 1, xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Công an huyện Nhà Bè bắt quả tang Nguyễn Hoài N đang bán ma túy cho Trần Văn Phương. Cơ quan Công an đã thu giữ trong túi quần bên phải phía sau của N 100.000 đồng là số tiền Phương vừa đưa cho N để mua ma túy, đồng thời thu giữ trong túi quần bên trái phía trước của N 01 gói nylon được hàn kín chứa tinh thể không màu, thu giữ trong ví da màu nâu hiệu Montblanc trong túi quần bên phải phía sau của N 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (N khai nhận là ma túy tổng hợp) và thu giữ 06 đoạn ống nhựa được hàn kín chứa bột màu trắng (N khai nhận là Heroin) trong nón bảo hiểm màu đen hiệu Hoàng Long Helmet treo trên ba ga xe mô tô biển số 59Z1-002.34 là xe do N điều khiển.

Qua khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Hoài N tại nhà số 13/4 Ấp 1, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhà Bè đã thu giữ: 10 đoạn ống nhựa (05 đoạn màu trắng, 05 đoạn màu xanh) dài 20cm; 02 dao lam; 01 cây kéo bằng kim loại; 02 kim tiêm hiệu Bibraun chưa sử dụng; 08 đoạn ống nhựa được hàn kín một đầu dài 2cm.

Trong quá trình điều tra, Nguyễn Hoài N khai nhận: Nguyễn Hoài N là người nghiện ma túy, đã bị nhiễm HIV. Từ tháng 4 năm 2019 N đã bán ma túy cho các đối tượng nghiện để kiếm lời bằng cách khi ai cần mua ma túy thì điện thoại cho N theo số 0867640104. Nếu N có sẵn ma túy mang theo trong người thì hẹn nhau đến cầu Mương Chuối để giao hàng. Nếu không có sẵn ma túy thì N sẽ hẹn người mua đến cầu Mương Chuối để nhận tiền trước rồi đến chân cầu Tân Thuận 2 trên đường Tôn Thất Thuyết, Quận 4 để mua ma túy về giao lại cho người mua.

Ngày 24/6/2019, N đi đến chân cầu Tân Thuận 2 trên đường Tôn Thất Thuyết, Quận 4 gặp một người phụ nữ tên Hoa (không rõ lại lịch) mua 07 tép heroine với giá 500.000 đồng và 01 gói ma túy tổng hợp với giá 200.000 đồng mang về nhà sử dụng hết một tép heroine Số ma túy đá còn lại N chia ra làm hai gói nhỏ vừa để sử dụng vừa bán cho người nghiện. Đến khoảng 07h50 ngày 24/06/2019, Trần Văn Phương gọi điện thoại cho N theo số 0867640104 để mua một tép heroine với giá 100.000 đồng. N đồng ý và hẹn giao hàng cho Phương tại cầu Mương Chuối thì bị Cơ quan Công an bắt quả tang như đã nêu trên.

Nguyễn Hoài N còn khai nhận từ trước cho đến ngày bị bắt đã bán cho Trần Văn Phương 05 - 06 lần, mỗi lần 01 tép heroine với giá 100.000 đồng, bán cho Lương Tấn Hồ 02 lần, mỗi lần 01 tép heroine với giá 100.000 đồng, bán cho Nguyễn Hồ Thanh Lâm 02 - 03 lần, mỗi lần 01 tép heroine với giá 100.000 đồng, bán cho Nguyễn Ngọc Hây 08 - 09 lần, mỗi lần 01 tép heroine với giá 100.000 đồng. N thu lợi từ việc bán ma túy cho Phương, Hồ, Lâm, Hây được khoảng 4.800.000 đồng. Chỉ có một mình Nguyễn Hoài N đi mua ma túy về bán cho các đối tượng.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhà Bè, Nguyễn Hoài N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên Tại Bản kết luận trưng cầu giám định số 1347/KLGĐ-H ngày 01/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Hoài N và hình dấu Công an xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè bên trong có: “Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m1 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1584 gam, loại Methamphetamine.

Bột màu trắng được ký hiệu mẫu m2 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2713 gam, loại Heroine”.

Tại Bản cáo trạng số 67/CT-VKS-NB ngày 30/10/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè đã truy tố bị cáo Nguyễn Hoài N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trong bản Cáo trạng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Hoài N từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù.

Đi với số tiền 4.800.000 đồng là tiền thu lợi bất chính đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự buộc bị cáo N phải nộp vào ngân sách Nhà nước.

Về xử lý vật chứng:

- Tinh thể không màu (m1) có khối lượng 0,1234g và bột màu trắng (m2) có khối lượng 0,2581g là vật cấm lưu hành nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy;

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, số Imel: TA-1032, đã qua sử dụng là công cụ, phương tiện phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy;

- 01 nón bảo hiểm màu đen hiệu Hoàng Long helmet; 01 ví da màu nâu hiệu Mcntblanc là vật không còn giá trị sử dụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy;

- 10 đoạn ống nhựa dài 20cm, 08 đoạn ống nhựa dài 2cm được hàn kín một đầu, 02 dao lam đã qua sử dụng, 01 hộp quẹt màu xanh, 01 cây kéo bằng kim loại dài 15cm, 02 kim tiêm là vật không còn giá trị sử dụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy;

- Số tiền 100.000 đồng là tiền do phạm tội mà có nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

- 01 xe mô tô biển số 59Z1-00234, đã qua sử dụng. Chiếc xe trên do ông Nguyễn Văn Hồng (sinh năm 1955, Hộ khẩu thường trú: 13/4 Ấp 1, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, là bố của bị cáo N) đứng tên chủ sở hữu. Ngày 24/6/2019, N hỏi mượn xe của ông Hồng đi công việc. Việc N sử dụng xe mô tô biển số 59Z1-00234 đi bán ma túy ông Hồng hoàn toàn không biết, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhà Bè đã trả chiếc xe trên cho ông Nguyễn Văn Hồng là có căn cứ đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Đi với các đối tượng Trần Văn Phương, Lương Tấn Hồ, Nguyễn Hồ Thanh Lâm, Nguyễn Ngọc Hây mua ma túy của N về để sử dụng trái phép nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhà Bè giao các đối tượng cho Công an xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè xử lý hành chính theo quy định của pháp luật là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trong bản Cáo trạng; nội dung phân tích, luận tội của kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, đồng thời cho rằng mình không bị oan và trong lời nói sau cùng đã đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để tạo điều kiện cho bị cáo sớm được trở về với con và gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án; Căn cứ vào các tài liệu đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

{1} Về hành vi tố tụng, thẩm quyền tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra công an huyện Nhà Bè và Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố; bị cáo, người liên quan cũng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

{2} Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Hoài N đã thừa nhận vì N là người nghiện ma túy nên thường mua ma túy về sử dụng và do muốn có tiền để sử dụng ma túy nên vào ngày 24/6/2019 chính bị cáo đã bán ma túy cho Trần Văn Phương với giá 100.000 đồng.

Trong quá trình điều trà và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Hoài N cũng thừa nhận đã bán cho Trần Văn Phương 05 - 06 lần, mỗi lần 01 tép heroine với giá 100.000 đồng, bán cho Lương Tấn Hồ 02 lần, mỗi lần 01 tép heroine với giá 100.000 đồng, bán cho Nguyễn Hồ Thanh Lâm 02 - 03 lần, mỗi lần 01 tép heroine với giá 100.000 đồng, bán cho Nguyễn Ngọc Hây 08 - 09 lần, mỗi lần 01 tép heroine với giá 100.000 đồng. N thu lợi từ việc bán ma túy cho Phương, Hồ, Lâm, Hây được khoảng 4.800.000 đồng.

Li khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 24/6/2019, lời khai của người liên quan trong quá trình điều tra và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Hoài N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Do vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tệ nạn ma túy đang là hiểm họa và nỗi đau nhức nhối của toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm, làm suy thoái nòi giống, băng hoại đạo đức và ảnh hưởng đến phẩm giá con người. Bị cáo là người đã thành niên có đầy đủ khả năng nhận thức được việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, chống lại chủ trương bài trừ ma túy của Đảng và Nhà nước nhưng xuất phát nhu cầu nghiện hút và xem thường pháp luật nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến các quy định của nhà nước về độc quyền quản lý các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an chung. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử cần xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm khắc, tương xứng mới có khả năng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, để răn đe riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên: Xét tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bà Đào Thị Nhành là bà nội của bị cáo là bà mẹ Việt N anh hùng, là người có công với cách mạng nên Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt khi lượng hình theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự Đối với các đối tượng Trần Văn Phương, Lương Tấn Hồ, Nguyễn Hồ Thanh Lâm, Nguyễn Ngọc Hây mua ma túy của N về để sử dụng trái phép nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhà Bè giao các đối tượng cho Công an xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè xử lý hành chính theo quy định của pháp luật là có căn cứ. Đại diện Viện kiểm sát cũng không đề nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

{3} Về việc xử lý vật chứng:

- Tinh thể không màu (m1) có khối lượng 0,1234g và bột màu trắng (m2) có khối lượng 0,2581g được niêm phong, có chữ ký của giám định viên và cán bộ điều tra là vật cấm lưu hành nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, xét tịch thu, tiêu hủy;

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, số Imel: TA-1032, đã qua sử dụng là công cụ, phương tiện phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, xét tịch thu, tiêu hủy;

- 01 nón bảo hiểm màu đen hiệu Hoàng Long helmet; 01 ví da màu nâu hiệu Mcntblanc là vật không còn giá trị sử dụng nên căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, xét tịch thu, tiêu hủy;

- 10 đoạn ống nhựa dài 20cm, 08 đoạn ống nhựa dài 2cm được hàn kín một đầu, 02 dao lam đã qua sử dụng, 01 hộp quẹt màu xanh, 01 cây kéo bằng kim loại dài 15cm, 02 kim tiêm là vật không còn giá trị sử dụng nên căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, xét tịch thu, tiêu hủy;

- Số tiền 100.000 đồng là tiền do phạm tội mà có nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự xét tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

- Đối với số tiền 4.800.000 đồng là tiền bị cáo thu lợi bất chính từ việc bán ma túy nên căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xét buộc bị cáo phải nộp vào ngân sách Nhà nước.

- 01 xe mô tô biển số 59Z1-00234 do ông Nguyễn Văn Hồng là bố của bị cáo đứng tên chủ sở hữu. Việc N sử dụng xe này đi vào việc phạm pháp ông Hồng không biết, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhà Bè đã trả chiếc xe trên cho chủ sở hữu. Ông Nguyễn Văn Hồng không có ý kiến và yêu cầu gì. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát cũng không đề nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

{4} Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoài N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Nguyễn Hoài N 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/6/2019.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu, tiêu hủy:

+ Tinh thể không màu (m1) có khối lượng 0,1234g và bột màu trắng (m2) có khối lượng 0,2581g được niêm phong, có chữ ký của giám định viên và cán bộ điều tra.

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, số Imel: TA-1032, đã qua sử dụng;

+ 01 nón bảo hiểm màu đen hiệu Hoàng Long helmet; 01 ví da màu nâu hiệu Mcntblanc;

+ 10 đoạn ống nhựa dài 20cm, 08 đoạn ống nhựa dài 2cm được hàn kín một đầu, 02 dao lam đã qua sử dụng, 01 hộp quẹt màu xanh, 01 cây kéo bằng kim loại dài 15cm, 02 kim tiêm.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 2019-NK 010 ngày 11/11/2019).

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 100.000 đồng (Theo Lệnh thanh toán ngày 11/102019).

- Buộc bị cáo phải nộp lại số tiền là 4.800.000 đồng vào ngân sách nhà nước.

4. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016; Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Người liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:59/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về