Bản án 59/2019/HS-ST ngày 12/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 59/2019/HS-ST NGÀY 12/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 4 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 52/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2019, đối với:

Bị cáo Trương Tấn, sinh năm 1992, tại Bà Rịa-Vũng Tàu. HKTT: 37 đường Phước Thắng, phường 12, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: phật; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Trương Tấn P (chết) và mẹ: Phạm Thị A; Vợ, con: không có;

Tiền án: Bản án số 224/2009/HSST ngày 23/9/2009 của TAND thành phố V xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo; Bản án số 47/2010/HSST ngày 09/4/2010 của TAND thành phố V xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp tài sản”, tổng hợp hình phạt 09 tháng tù của bản án số 224/2009/HSST buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung 05 năm 09 tháng tù; Bản án số 52/2010/HSST ngày 29/7/2010 của TAND thị xã B xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp tài sản” tổng hợp hình phạt 05 năm 09 tháng tù của Bản án số 47/2010/HSST, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 09 năm 09 tháng tù. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 16/10/2017;

Tiền sự: không. Bị bắt ngày 29/7/2018. (có mặt)

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị Thanh L, sinh năm: 1976, HKTT: ấp Q, xã T, huyện G, tỉnh Long An (Chỗ ở: Phường M, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trương Tấn Đ và Nguyễn Văn T (tên gọi khác: L, sinh năm: 1990, chỗ ở: đường G, Phường M, thành phố V) là bạn bè và là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Vào khoảng 20 giờ 30 ngày 29/7/2018 T gọi điện thoại di động đến số 01219685*** gặp Đ hỏi mua 01 gói ma túy tổng hợp với giá 200.000đ và hẹn đến hẻm 907 đường G, Phường M, thành phố V để giao ma túy, Đ đồng ý. Đến khoảng 21 giờ 30 cùng ngày Đ điều khiển xe mô tô biển số 72H3-52** đến điểm hẹn gặp và bán 01 gói ma túy cho T với giá 200.000đ, khi cả hai vừa thực hiện việc mua bán ma túy xong thì bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm: thu của Đ 200.000đ là số tiền Đ bán ma túy cho T, 01 điện thoại di động kèm sim số 01219685901 và 01 xe mô tô biển số 72H3- 52**, số máy VMT 1P52FMH-A015783 và số khung RMTDCHOHY 7C011 283; thu trên tay của Nguyễn Văn T 01 gói nylon, hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (cả hai cùng khai là ma túy, Đ vừa bán cho T).

Quá trình điều tra, Đ và T đều khai nhận vào ngày 27/7/2018 cũng tại hẻm 907 đường Bình Giã, Phường 10, thành phố V Đ đã bán ma túy cho T bán 01 gói ma túy với giá 200.000đ.

Tại Bản kết luận giám định số 234/GĐMT-P54(Đ4) ngày 08 tháng 8 năm 2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu kết luận:

Mẫu chất kết tinh không màu - trong suốt chứa trong 01 (một) gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Công an Phường 10 - CAthành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Nguyễn Hiệp C, Nguyễn Xuân T, Trương Tấn Đ, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn T1, gửi đến giám định có khối lượng 0,1398 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine.

Đi với xe mô tô có số khung RMTDCHOHY 7C011283 và số máy VMT 1P52FMH-A015783 không phải xe có biển số 72H3-52**, Đ khai mua chiếc xe trên tại một tiệm ve chai ở khu vực Phường M thành phố V với giá 1.000.000đ, xe không có giấy tờ. Cơ quan CSĐT Công an thành phố V tiến hành điều tra nhưng không xác định được chủ sở hữu và chuyển chiếc xe trên đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V quản lý.

Về nguồn gốc số ma túy Đ đã bán cho T: Đ khai mua, giao tiền và nhận ma túy trực tiếp của một người phụ nữ tên cô L 2 lần vào các ngày 27/7/2018 và ngày 29/7/2018, qua xác minh xác định người phụ nữ có tên là Nguyễn Thị Thanh L, sinh năm 1976. Nhưng L không thừa nhận bán cho Đ mà chỉ dẫn Đ đi mua dùm ma túy của một đối tượng tên Lê Như B (sinh năm 1985, địa chỉ đường S, phường R, thành phố V. Tuy nhiên Bảo không thừa nhận đã bán ma túy cho Long và Đ.

Đi với Nguyễn Văn T đã bỏ trốn, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

Bản cáo trạng số 61/CT-VKSTPVT ngày 18/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố Trương Tấn Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Trương Tấn Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, căn cứ điểm b, q khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đ từ 08 năm đến 09 năm tù; Về vật chứng đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy chất ma túy thu giữ trong vụ án; tịch thu nộp ngân sách nhà nước 200.000đ, 01 điện thoại di động hiệu Nokia, 01 xe mô tô. Đối với hành vi của Nguyễn Thị Thanh L do lời khai của Long và Đ không thống nhất nên không có cơ sở để khởi tố đối với Long.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, không có người nào khác có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản phạm tội quả tang, Kết luận giám định, lời khai của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, nên có cơ sở xác định: Vào khoảng 21 giờ 30 ngày 29/7/2018, tại 907 đường G, Phường M, thành phố V, Trương Tấn Đ bị bắt quả tang có hành vi bán 01 gói ma túy có khối lượng 0,1398 gam, loại Methamphetamine cho Nguyễn Văn T, với giá 200.000đ. Qua điều tra có cơ sở xác định ngày 27/7/2018 cũng tại địa điểm trên Đ đã bán 1 gói ma túy cho T với giá 200.000đ và bị cáo đang có tiền án về tội rất nghiêm trọng lại tiếp tục vi phạm. Do đó, có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Trương Tấn Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung tái phạm nguy hiểm và phạm tội hai lần trở lên quy định tại điểm b, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[3] Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến qui định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn xã hội tại địa phương mà còn trực tiếp tiếp tay cho các đối tượng mua bán trái phép chất ma túy khác. Bản thân bị cáo có nhân thân rất xấu, năm 2009 bị TAND thành phố V xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”; tháng 4/2010, bị TAND thành phố V xử phạt 5 năm tù, về tội “Cướp tài sản”, tháng 7/2010 bị TAND thị xã R xử phạt 4 năm tù về tội “Cướp tài sản”, đến nay bị cáo chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội cho thấy xem thường pháp luật, cần phạt xử phạt thật nghiêm mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên qua trình điều tra tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và sau khi bị bắt quả tang thì bị cáo đã tự khai báo ra hành vi phạm tội trước đó nên căn cứ điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6] Đối với hành vi của Nguyễn Thị Thanh L: Qua điều tra, Đ khai mua ma túy của Nguyễn Thị Thanh L hai lần vào các ngày 27/7 và 29/7/2018, mỗi lần mua 200.000đ và L là người giao ma túy và nhận tiền trực tiếp từ Đ mà không thông qua người nào khác. L chỉ thừa nhận vào hai ngày trên có dẫn Đ đi và mua dùm ma túy cho Đ chứ không bán ma túy cho Đ. Cụ thể: lần đầu Đ đến gặp L ở quán nhậu gần phòng trọ của Long nhờ mua dùm ma túy và Đ hứa sẽ cho sử dụng chung. L đồng ý và dẫn Đ đi gặp người bán ma túy, trên đường đi L gặp đối tượng tên C nhờ mua dùm ma túy, lúc này L hỏi Đ mua bao nhiêu, Đ nói 400.000đ và đưa tiền cho L, L đưa cho C và hẹn giao ma túy phòng trọ của L. Được một lúc thì C mang ma túy tới phòng trọ đưa cho L rồi L đưa lại cho Đ, sau đó thì Đ về luôn mà không cho L sử dụng; Lần hai: Đ đến nhà L đưa 300.000đ và 01 điện thoại Gionee để cầm 600.000đ nhờ L mua dùm 900.000đ ma túy, L đồng ý và gọi điện cho đối tượng tên B (Lê Như B - số 75 S, Phường M, thành phố V) rồi Đ chở L đến nhà Bảo. Tại đây, Long đưa 200.000đ (L giấu lại 100.000đ) và chiếc điện thoại Gionee qua khe cửa nhà của B và nhận túy (L không thấy được người bán), sau đó Long đưa cho Đ và cả hai cùng về phòng trọ của L, do không có dụng cụ sử dụng nên Đ cho L một ít ma túy rồi bỏ đi. Qua đối chất, Lê Như B không thừa nhận bán ma túy cho L và cũng không biết L và Đ là ai. Xét thấy, hành vi của L nhận tiền từ Đ rồi đưa ma túy cho Đ có dấu hiệu phạm tội mua bán trái phép chất ma túy túy, Hội đồng xét xử kiến nghị Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra để làm rõ trách nhiệm đối với hành vi của Nguyễn Thị Thanh L theo quy định của pháp luật.

[7] Xử lý vật chứng:

- Chất ma túy thu giữ trong vụ án là chất cấm lưu hành và 01 biển số 72H3-5222 không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy;

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và 200.000đ do bị cáo phạm tội mà có nên nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- 01 xe mô tô có số khung: RMTDCHOHY 7C 011283 và số máy VMT 1P52FMH-A015783 không xác định được chủ sở hữu nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[8] Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định.

Vì các lẽ trên, túy”.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trương Tấn Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma

- Căn cứ điểm b, q khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Trương Tấn Đ 08 (Tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày 29/7/2018.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy chất ma túy trong 01 gói niêm phong số 234/GĐMT- PC09 (Đ4) ngày 08/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia, 01 xe mô tô và 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).

(Các vật chứng trên hiện Chi cục THADS thành phố V đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng số 100/BB.THA ngày 27/3/2019 và Biên lai thu tiề số 0002021 ngày 27/3/2019).

3. Án phí: Buộc bị cáo Trương Tấn Đ phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2019/HS-ST ngày 12/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:59/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về