Bản án 59/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 59/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26/9/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số 171/2019/TLST-HNGĐ ngày 11/4/2019 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 20/8/2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 41/2019/QĐST-HNGĐ ngày 06/9/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Trần Thị H, sinh năm 1991 (Vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt)

Địa chỉ: 3 Ô 3/18 khu phố H.P, thị trấn P.H, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1986 (Vắng mặt)

Địa chỉ: 1/12B ấp A.P, xã A.N, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Trần Thị H trình bày: bà H và ông Nguyễn Văn T chung sống và có đăng ký kết hôn ngày 29/12/2009 tại UBND thị trấn P.H, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, hôn nhân trên cơ cở tự nguyện. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được hơn một năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do tính cách không phù hợp, khi vợ chồng cãi nhau thì ông T thường có lời lẽ lăng mạ, xúc phạm bà H , mâu thuẫn ngày càng trầm trọng và không thể hóa giải được, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2011 đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà H yêu cầu được ly hôn với ông T để hai bên có điều kiện tạo lập cuộc sống riêng.

Về con chung: bà H và ông T có 01 con chung tên là Nguyễn Ngân Q, sinh ngày 30/9/2009. Ly hôn bà H xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Văn T đã đƣợc Tòa án triệu tập lên làm việc nhiều lần nhƣng vẫn vắng mặt không có lý do. Tại phiên tòa hôm nay ông T vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử tuân theo đúng quy định về tố tụng.

Về nội dung vụ án: năm 2009 bà Trần Thị H và ông Nguyễn Văn T chung sống và có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn P.H, huyện Đất Đỏ nên là hôn nhân hợp pháp. Theo bà H thì vợ chồng chung sống hạnh phúc được một năm phát sinh mâu thuẫn do không tìm được tiếng nói chung và đã sống ly thân từ năm 2011 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Xét yêu cầu xin ly hôn của bà H thì thấy, theo quy định của Luật hôn nhân gia đình vợ chồng phải có nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc lẫn nhau, tuy nhiên hai người hiện nay đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau, vợ chồng không có ý thức xây dựng hạnh phúc chung, quá trình bà H nộp đơn ly hôn ông T cũng không lên Tòa làm việc nên không có điều kiện hòa giải đoàn tụ vợ chồng. Hiện nay bà H xác định tình cảm vợ chồng đã không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với ông T là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận. Về con chung, có 01 con chung tên là Nguyễn Ngân Q, sinh ngày 30/9/2009. Hiện con chung đang sống cùng với bà H, ly hôn bà H yêu cầu được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu cấp dưỡng là phù hợp nên đề nghị chấp nhận. Về tài sản chung và nợ chung không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: nguyen đơn bà Trần Thị H vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn ông Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Trần Thị H và ông Nguyễn Văn T theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án: bà Trần Thị H và ông Nguyễn Văn T có đăng ký kết hôn vào năm 2009 tại UBND thị trấn P.H, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện nên là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà H thì thấy: theo lời khai của bà H thì nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do tính cách không phù hợp, vợ chồng hay cãi nhau và ông T thường có lời lẽ xúc phạm bà H, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng và không thể hóa giải được, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung và đã sống ly thân với nhau.

Theo xác minh, ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1986 có đăng ký hộ khẩu thường trú và có cư trú tại địa chỉ 1/12B ấp A.P, xã A.N, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Ông T và bà H là vợ chồng nhưng hiện nay không chung sống với nhau nữa, bà H đã bỏ về Đất Đỏ sinh sống.

Tòa án nhân dân huyện Long Điền đã nhiều lần triệu tập ông T tới Tòa án làm việc nhưng ông T vẫn vắng mặt không có lý do.

[3] Từ những tài liệu chứng cứ trên, xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà A và ông T là trầm trọng. Trong quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn và hiện nay đã sống ly thân với nhau, không ai quan tâm tới ai, mục đích xây dựng cuộc sống hôn nhân không đạt được, tình cảm hiện nay đã không còn, vì vậy trước yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà H, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ nên chấp nhận.

Về con chung: bà H và ông T có 01 con chung tên là Nguyễn Ngân Q, sinh ngày 30/9/2009. Từ khi vợ chồng ly thân với nhau, con chung sống cùng với bà H, ly hôn bà H yêu cầu được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con, yêu cầu trên của bà H phù hợp với nguyện vọng của con chung nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về tài sản chung và nợ chung: bà H không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: bà H phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị H.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

- Về con chung: bà Trần Thị H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Ngân Q, sinh ngày 30/9/2009. Ông Nguyễn Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con do bà H không có yêu cầu, được thăm nom con không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con chung, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc cấp dưỡng nuôi con khi có yêu cầu.

- Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét đến.

- Về án phí: bà Trần Thị H phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng theo biên lai thu tiền số 0008263 ngày 09/4/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Điền.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 26/9/2019, các đương sự có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Đối với người vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn này tính từ ngày nhận bản sao bản án hoặc bản sao bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:59/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về