Bản án 59/2019/HNGĐ-ST ngày 16/07/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 59/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 16 tháng 7 năm 2019 tại hội trường Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 300/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 4 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2019/QĐXX-ST ngày 06 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị Th, S năm 1969

Địa chỉ: Tổ dân phố YN, phường BH, thị xã PY, tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt tại phiên tòa)

Bị đơn: Ông Hà Văn S, S năm 1959

Địa chỉ: Tổ 11, phường QT, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt tại phiên tòa lần 2)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà Lê Thị Th trình bày: Bà và ông Hà Văn S kết hôn vào năm 2009, đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân thị trấn BH, huyện PY, tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc gì. Quá trình chung sống vợ chồng không có con chung.

Nguyên nhân xin ly hôn bà Th khai: Bà và ông S kết hôn với nhau đều không phải lần đầu nên vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn bất đồng quan điểm sống, thực tế ông bà cũng không sống chung với nhau, chỉ thỉnh thoảng ông S về với bà một, hai ngày rồi lại đi, tình cảm vợ chồng do xa nhau nên không được vụn đắp, chia sẻ dẫn tới khoảng cách vợ chồng ngày càng lớn. Bà Th xác định mâu thuẫn vợ chồng hiện nay đã trầm trọng nên tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, bà đề nghị được ly hôn với ông S để giải phóng cho nhau.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà xác định không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Bà đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Phía bị đơn ông Hà Văn S trong bản tự khai và tại buổi hòa giải ngày 13/5/2019 trình bày: Ông với bà Lê Thị Th kết hôn với nhau vào năm 2009, có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân thị trấn Ba Hàng, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Trong suốt quá trình chung sống, do cả hai bên đều có con riêng nên giữa vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, nhưng ông xác định hiện nay đã có tuổi nên không nhất trí ly hôn.

Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Ông xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Ông S đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã kiên trì hòa giải nhưng các đương sự vẫn giữ nguyên quan điểm của mình. Tại phiên hòa giải lần thứ 2, ông S đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên vụ án được đưa ra xét xử công khai ngày hôm nay.

Tại phiên tòa bà Th xác định tình cảm vợ chồng không còn, cương quyết xin ly hôn đối với ông S.

Kết thúc phần hỏi, vị đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự như: Xác định đúng thẩm quyền và quan hệ tranh chấp; Thực hiện các hoạt động tố tụng và thời hạn mở phiên tòa theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa xét xử sơ thẩm.

-Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền, nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, Điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ Điều 51; Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Luật phí và lệ phí số 97/2015QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Th, cho bà Th được ly hôn với ông Hà Văn S. Về án phí bà Th phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: 

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình quy định tại Điều 28 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên.

Tại phiên tòa hôm nay, ông Hà Văn S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung: Bà Lê Thị Th và ông Hà Văn S kết hôn với nhau vào năm 2009, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Ba Hàng, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, trên cơ sở tự nguyện và không bị ai ép buộc gì nên được pháp luật thừa nhận là cuộc hôn nhân hợp pháp.

Nguyên nhân bà Th xin ly hôn là do ông bà kết hôn với nhau đều không phải lần đầu, nên xảy ra mâu thuẫn bất đồng trong cách cư xử với các con, từ đó vợ chồng không còn tiếng nói chung và thực thế ông bà cũng không có được sự gắn kết, sự quan tâm, chia sẻ do không chung sống cùng nhau. Ông S cùng thừa nhận vợ chồng trên thực tế không sống cùng nhau, nhưng vẫn có mâu thuẫn tuy nhiên ông xác định hiện nay vợ chồng đều đã có tuổi nên không nhất trí ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy giữa ông S và bà Th, tuy không có sô sát, nhưng thực tế khoảng cách tình cảm giữa ông S và bà Th là khá lớn do các bên không chung sống cùng nhau, không có sự quan tâm chia sẻ nên không cùng chung chí hướng vì vậy bà Th xác định tình cảm vợ chồng không còn cương quyết được ly hôn với ông S. Nhận thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã trở nên trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, trên thực tế không ai còn quan tâm đến ai. Nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Th là phù hợp với thực tế và quy định tại các Điều 51, 56 luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Điều 51, 56 Luât Hôn nhân và gia đình quy định:

Điều 51: Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn

1.Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Điều 56: Ly hôn theo yêu cầu của một bên

1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

Về con chung, về tài sản chung, nợ chung: Bà Th, ông S đều xác định không có và đều không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Bà Th phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Điều 51; Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/ 2016/ UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lê Thị Th, cho bà Lê Thị Th được ly hôn với ông Hà Văn S.

2. Về con chung:Không có.

3. Về tài sản chung, nợ chung và các khoản cho vay: Không có, không yêu cầu Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Án phí: Bà Th phải chịu 300.000 đ(Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm vào ngân sách nhà nước, được chuyển từ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001558 ngày 17/4/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

Bà Th có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông S vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2019/HNGĐ-ST ngày 16/07/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:59/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về