Bản án 59/2019/HNGĐ-ST ngày 13/08/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG – TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 59/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 13 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1581/2018/TLST-HNGĐ ngày 26/12/2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2019/QĐXXST-DS ngày 04 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 31/2019/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ông Phan Khánh Hùng S – SN 1992

Địa chỉ: 89/1 Nguyễn Thái H, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt tại phiên tòa.

* Bị đơn: Bà Hồ Thị T - SN 1991

Địa chỉ: tổ 15, khóm N, phường N, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa.

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 30/8/2018, biên bản lấy lời khai ngày 26/02/2019 và tại phiên tòa nguyên đơn ông Phan Khánh Hùng S trình bày: ông và bà Hồ Thị T tự nguyện kết hôn năm 2015, có đăng ký kết hôn và có một con chung là Phan Hải Minh T – sinh ngày 25/8/2015. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống cùng với mẹ ruột bà T tại phường N, N. Vợ chồng hạnh phúc, không có mâu thuẫn gì xảy ra. Tuy nhiên đến năm 2016, trong thời gian ông đi nghĩa vụ quân sự, bà T ở nhà có quan hệ tình cảm với người khác và thường xuyên bỏ nhà đi chơi, giao con cho mẹ ruột chăm sóc. Đến đầu năm 2018, sau khi ông ra quân nhưng bà T không thay đổi vẫn tiếp tục bỏ đi, để con lại cho ông nuôi dưỡng và chăm sóc, cũng không tới lui thăm nom con. Hiện vợ chồng đã không còn sống chung, không ai quan tâm tới ai từ tháng 7/2018. Nay ông thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn bà Hồ Thị T.

Con chung: cháu T ở cùng ông từ năm 2018 đến nay nên ông có nguyện vọng tiếp tục được trông nom, chăm sóc và nuôi dưỡng, không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung không yêu cầu giải quyết. Nợ chung không có.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang: Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, có căn cứ và đúng pháp luật.

Về nội dung vụ án: xét mâu thuẫn giữa nguyên đơn và bị đơn là trầm trọng kéo dài, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 56, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn bà Hồ Thị T đã được Tòa án thực hiện việc niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng bà T vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ vào Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà T.

[2] Về nội dung:Ông Phan Khánh Hùng S và bà Hồ Thị T tự nguyện kết hôn năm 2015 nên đây là hôn nhân hợp pháp.

[3] Theo nguyên đơn ông S thì ông và bà T kết hôn năm 2015, thời gian đầu sau khi kết hôn vợ chồng hạnh phúc. Nhưng đến đầu năm 2016, trong thời gian ông đi nghĩa vụ quân sự, bà T có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác và thường xuyên bỏ nhà đi. Mặc dù, sau khi ra quân, ông đã tha thứ tạo cơ hội cho bà T nhưng bà T vẫn không thay đổi mà bỏ đi để con lại cho ông nuôi dưỡng. Vợ chồng không còn sống chung, không ai quan tâm tới ai từ tháng 7/2018 đến nay nên ông xin được ly hôn bà T.

Hội đồng xét xử xét thấy, thực tế bắt đầu từ năm 2016, tình cảm vợ chồng giữa ông S và bà T có xảy ra mâu thuẫn do bà T có quan hệ tình cảm với người khác, không quan tâm chăm sóc con. Mặc dù sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, ông S có tạo cơ hội để vợ chồng hàn gắn tình cảm nhưng bà T không thay đổi. Đến tháng 7/2018, bà T giao con cho ông S nuôi dưỡng và bỏ đi dẫn đến vợ chồng không còn sống chung, không ai quan tâm tới ai. Quá trình Tòa án giải quyết vụ án bà T cũng bỏ mặc không đến tòa. Điều đó cho thấy bà T không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do vậy, xét thấy tình cảm vợ chồng giữa ông S và bà T là không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn ông Phan Khánh Hùng S là phù hợp.

[4] Về con chung: Có 01 con chung Phan Hải Minh T – sinh ngày 25/8/2015, cháu T đã ở ổn định với ông S từ tháng 7/2018 đến nay. Ông S cũng có nguyện vọng tiếp tục được nuôi cháu T, không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con. Do vậy, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Sơn, giao con chung Phan Hải Minh T – sinh ngày 25/8/2015 cho ông Phan Khánh Hùng S trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Bà T không phải cấp dưỡng nuôi con do ông S không yêu cầu.

[5] Tài sản chung: ông S không yêu cầu tòa giải quyết.

[6] Nợ chung: không có.

[7] Án phí: Ông S phải nộp án phí 300.000đ HNGĐ-ST.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ vào Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án..

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Ông Phan Khánh Hùng S được ly hôn bà Hồ Thị T.

2.Về con chung: giao con chung Phan Hải Minh T – sinh ngày 25/8/2015 cho ông Phan Khánh Hùng S trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Bà T không phải cấp dưỡng nuôi con do ông S không yêu cầu.

Vì lợi ích của con khi cần thiết các bên có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con. Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

Về tài sản chung: Ông Phan Khánh Hùng S không yêu cầu tòa giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Nợ chung: không có.

3. Về án phí: Ông Phan Khánh Hùng S phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí HNGĐ-ST nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0010474 ngày 26/12/2018 của Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang. Ông S đã nộp đủ án phí.

Quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2019/HNGĐ-ST ngày 13/08/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:59/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về