Bản án 59/2018/HS-ST ngày 10/07/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 59/2018/HS-ST NGÀY 10/07/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 58/2018/TLST-HS, ngày 06 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2018/QĐXXST- HS ngày 26 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Đình T, sinh năm 1995; Nơi cư trú: xã B, huyện L, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Đình Th và bà Mai Thị H; vợ: Lê Thị Q, bị cáo có 01 con sinh năm 2016; bị cáo là con lớn nhất trong gia đình có 03 anh em; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 07/4/2018 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Long Thành.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Lê Trung Tr, sinh năm: 1988. Địa chỉ: xã LP, huyện LT, tỉnh Đ.

2. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm: 1991.

Địa chỉ: xã T, huyện L, tỉnh Đ.

3. Anh Tạ Danh T, sinh năm: 1996. Địa chỉ: xã B, huyện L, tỉnh Đ.

4. Anh Dương Quang H, sinh năm: 1992. Địa chỉ: xã T, huyện L tỉnh Đ.

5. Anh Nguyễn Thành Đ, sinh năm: 1997. Địa chỉ: xã B, huyện L, tỉnh Đ.

(Bị cáo Nguyễn Đình T có mặt, người làm chứng anh Tr, anh H, anh T, anh H, anh Đ vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

T là người nghiện ma túy từ năm 2017 đến nay. Lúc 19 giờ ngày 05/4/2018, T đến nhà của Nguyễn Lê Trung Tr mua 01 gói ma túy đá giá 300.000 đồng. Sau đó, T mang về nhà cắt 1 đầu lấy ra một ít để sử dụng, số còn lại T cất giấu tại nhà ở xã B, huyện L. Đến 21 giờ cùng ngày, Nguyễn Văn H là đối tượng nghiện gọi điện hỏi Tr để mua ma túy nhưng do không còn ma túy nên Tr gọi điện thoại cho T hỏi “bịch ma túy lúc nảy còn không, có người ở Tân Hiệp muốn mua”. T đồng ý bán. Nghe vậy Tr cho H số điện thoại của T để liên lạc. Khoảng 30 phút sau, H sử dụng số điện thoại 0939.859.771 gọi vào điện thoại của T sim số 0901.641.063 nói “ Tôi là bạn của Tr, bạn còn không để cho tôi 300.000 đồng?”. Lúc này T hiểu là H muốn mua ma túy nên đồng ý và hẹn H đến đầu nông trường cao su Thái Hiệp Thành ở ấp 2, xã Bàu Cạn, huyện Long Thành để giao ma túy. T lấy gói ma túy còn lại, dùng bật lửa hàn kín 2 đầu xong cất vào túi quần, T mượn xe mô tô biển số 60C1- 978.89 của bạn là Nguyễn Thành Đ để đi đến điểm giao hàng. Sau đó, Dương Quang H (bạn của H) điều khiển xe mô tô không rõ biển số chở H đến điểm hẹn. T gặp H, H đưa cho T 300.000 đồng, T đưa cho H 01 túi ma túy. Cùng lúc này Đ và T Danh T đi tìm T vừa tới nơi Đ và T gây gổ với H và H nên dùng cây gỗ đánh H, H bỏ chạy. Đến ngày 07/4/2018 T bị bắt giữ khẩn cấp.

Tại Cơ quan điều tra H khai nhận đã mua 01 gói ma túy tổng hợp của T như trên và đã sử dụng hết vào ngày 05/4/2018, Nguyễn Lê Trung Tr cũng thừa nhận bán cho Nguyễn Đình T 01 gói ma túy tổng hợp và giới thiệu H liên lạc mua ma túy của T như nêu trên.

Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng là vật chứng vụ án. Riêng đối với ma túy T bán cho H, H đã sử dụng hết vào ngày 05/4/2018 nên không thu giữ được ma túy.

Trước Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành, bị cáo Nguyễn Đình T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên phù hợp với biên bản ghi lời khai người làm chứng cùng các vật chứng, chứng cứ, tài liệu đã thu thập được tại hồ sơ vụ án.

Tại Cáo trạng số 59/CT-VKS, ngày 30 tháng 5 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành truy tố bị cáo Nguyễn Đình T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1, Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T từ 02 năm – 02 năm 06 tháng tù.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng là công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và số tiền 300.000 đồng thu lợi bất chính do bị cáo bán ma túy mà có.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đình T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng cùng các tài liệu đã thu thập được tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đã có cơ sở kết luận: Vào lúc 19 giờ ngày 05/4/2018, T mua 01 túi ma túy của Nguyễn Lê Trung Tr ở ấp 5 xã Long Phước giá 300.000 đồng. T mang về lấy bớt ra một ít sử dụng, số còn lại T mang đến khu vực nông trường cao su Thái Hiệp Thành ở ấp 2 xã Bàu Cạn, huyện Long Thành bán lại cho Nguyễn Văn H với giá 300.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy nên bị cáo hiểu rất rõ tác hại của ma túy sẽ gây hiểm họa mắc nhiều căn bệnh nguy hiểm, là mầm mống của nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì động cơ tham lam, vụ lợi nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hành vi phạm tội của mình.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

+ Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

+ Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn có đơn xác nhận của chính quyền địa phương. Do đó Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Đối với Nguyễn Lê Trung Tr có hành vi bán ma túy cho T, Cơ quan điều tra đã tách ra khởi tố bằng một vụ án khác đang điều tra, xử lý nên không xem xét giải quyết trong vụ án.

[6] Đối với Nguyễn Văn H có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, hiện Công an xã Tân Hiệp ra quyết định xử lý hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với chiếc xe mô tô biển số 60C1 – 978.89 mà T điều khiển đi bán ma túy, đây là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Thành Đ. Anh Đ xác định cho em bị cáo T là Nguyễn Đình C mượn để đi lại, việc bị cáo T tự ý lấy xe sử dụng vào việc phạm tội anh Đ hoàn toàn không biết. Vì vậy, Cơ quan điều tra công an huyện Long Thành không thu giữ xe là đúng quy định pháp luật.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng là công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và số tiền 300.000 đồng bị cáo thu lợi bất chính từ việc bán ma túy cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Đối với ma túy T bán cho H, H đã sử dụng hết vào ngày 05/4/2018 nên không thu giữ được ma túy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình T phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T: 02 (hai) năm tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam bị cáo là ngày 07/4/2018.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên:

Tịch thu sung công quỹ nhà nước đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng là công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

(Hiện vật chứng đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành quản lý theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 05/6/2018).

Buộc bị cáo nộp lại số tiền 300.000 đồng bị cáo thu lợi bất chính từ việc bán ma túy để sung công quỹ nhà nước.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Đình T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Đình T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

285
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2018/HS-ST ngày 10/07/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:59/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về