Bản án 589/2020/HS-ST ngày 04/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 589/2020/HS-ST NGÀY 04/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 04 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 606/2020/TLST - HS ngày 20 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 599/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Trọng T; Tên gọi khác: không. Sinh năm 1992.

Nơi sinh: tỉnh Gia Lai.

Nơi cư trú: số 79, khu phố 3, phường A, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh ; Tôn giáo: Phật giáo.

Nghề nghiệp: không.

Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không.

Trình độ học vấn: Lớp 12/12.

Họ tên cha: Nguyễn Nhất D, sinh năm: 1968.

Họ tên mẹ: Nguyễn Thị C, sinh năm: 1968.

Họ tên vợ: Bùi Thị Huyền T (sinh năm 1989) và có 01 con sinh năm 2016. Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 16/6/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai.

(Bị cáo Trí có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Trọng T là đối tượng nghiện ma túy đá, để có ma túy đá sử dụng nên vào lúc 12 giờ ngày 16/6/2020, T sử dụng điện thoại di động hiệu Nokia màu đỏ trắng, số thuê bao số 0937686125 điện thoại cho đối tượng tên B (không rõ nhân thân) để hỏi mua ma túy đá với giá 6.500.000 đồng (sáu triệu, năm trăm nghìn đồng), B đồng ý và hẹn T đến khu vực chân cầu Sài Gòn thuộc thành phố Hồ Chí Minh để giao ma túy. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, T điều khiển xe mô tô biển số 59D1-587.07 đi đến điểm hẹn để gặp B mua ma túy đá, nhưng B không ra mà cho một người đàn ông (không rõ nhân thân) đi ra bán cho T 01 gói ma túy đá, T đưa số tiền 6.500.000 đồng (sáu triệu, năm trăm nghìn đồng) và cất giấu ma túy đá trong hộc xe mô tô biển số 59D1-587.07 rồi điều khiển xe mô tô đi về thành phố Biên Hòa. Đến khoảng 16 giờ 45 phút cùng ngày, khi T đi đến tại nhà số 40/2, khu phố 8, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thì bị Công an phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng tang vật và lập hồ sơ ban đầu chuyển đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa để điều tra theo thẩm quyền.

Vật chứng vụ án:

- 01 (một) gói tinh thể màu trắng có kích thước 03 x 06cm được hàn kín hai đầu:

 - 01 (một) xe mô tô biển số 59D1-587.07:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Sam sung màu đen, số thuê bao số 0355518823:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đỏ trắng, số thuê bao số 0937686125:

- 01 (một) chứng minh nhân dân số 272247287 mang tên Nguyễn Trọng T.

Bút lục số: từ 02 đến 03.

Tại Kết luận giám định số: 1222/KLGĐ-PC09 ngày 22/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 20,0085 gam, loại: Methamphetamine Tại bản cáo trạng số 605/CT-VKSBH ngày 15 tháng 10 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Nguyễn Trọng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố. Đề nghị, Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” xử phạt bị cáo Trí từ 07 năm đến 08 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về pháp luật áp dụng và xác định tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như cáo trạng mô tả. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng, biên bản phạm tội quả tang và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Từ đó có đủ cơ sở để kết luận:

[3] Vào khoảng 16 giờ 45 phút ngày 16/6/2020, tại trước nhà số 40/2, khu phố 8, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, bị cáo Nguyễn Trọng T đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, có khối lượng 20,0085 gam, loại Methamphetamine để ở trong hộc bên trái xe mô tô biển số 59D1-587.07 do Trí đang điều khiển thì bị Công an phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng tang vật rồi lập hồ sơ ban đầu chuyển đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa để điều tra theo thẩm quyền.

[4] Hành vi của bị cáo Nguyễn Trọng T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm cũng như các tệ nạn xã hội khác. Bị cáo thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[6] Về các tình tiết tăng nặng: Không.

[7] Về các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[8] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng Methamphetamine sau giám định theo gói niêm phong số 1222 ngày 22/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng nai.

Trả lại 01 (một) điện thoại di động hiệu Sam sung màu đen, số thuê bao số 0355518823 và 01 (một) chứng minh nhân dân số 272247287 mang tên Nguyễn Trọng T cho T do không liên quan đến vụ án:

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đỏ trắng, số thuê bao số 0937686125 của Nguyễn Trọng T là phương tiện dùng vào việc phạm tội:

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa.

[9] Đối với đối tượng tên B và người đàn ông đã có hành vi bán ma túy cho Nguyễn Trọng T do chưa xác định được nhân thân, lai lịch của B và người đàn ông này nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tách ra tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ xử lý sau. Đối với xe mô tô biển số 59D1- 587.07 do chưa xác định được nguồn gốc chủ sở hữu nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tách ra tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ xử lý sau.

[10] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc bị cáo T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[11] Quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hoà phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng T 06 (Sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/6/2020.

Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng Methamphetamine sau giám định theo gói niêm phong số 1222 ngày 22/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng nai.

Trả lại 01 (một) điện thoại di động hiệu Sam sung màu đen, số thuê bao số 0355518823 và 01 (một) chứng minh nhân dân số 272247287 mang tên Nguyễn Trọng T cho T do không liên quan đến vụ án:

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đỏ trắng, số thuê bao số 0937686125 của Nguyễn Trọng T là phương tiện dùng vào việc phạm tội:

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa.

Về án phí : Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Buộc bị cáo Trí phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 589/2020/HS-ST ngày 04/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:589/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về