Bản án 586/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 586/2020/HS-ST NGÀY 30/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 10 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:148/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 523/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2020 đối với:

- Bị cáo: Quách Thương M (tên gọi khác: Không), sinh năm 1998 tại tỉnh Hậu Giang; Nơi đăng ký thường trú: ấp M, xã T, huyện Ph, tỉnh H; nơi cư trú: không xác định; nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Quách Thanh Thvà bà Nguyễn Thị Ph; bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án: Không; tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ ngày 19/11/2019 theo Lệnh số 648 ngày 19/11/2019 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Biên Hòa; được thay thế biện pháp ngăn chặn theo Quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ số 7738/QĐ- VKSBH ngày 27/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, bị áp dụng cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số 304/CQĐT-HS ngày 27/11/2019 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Biên Hòa; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Quách Thương M là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 21 giờ ngày 18/11/2019, Mđiều khiển xe mô tô biển số 93F8-4563 đến khu vực cây xăng Tín Nghĩa, thuộc khu phố 2, phường Long Bình Tân, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai mua của 01 người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) 01 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng). Sau khi mua, M cất giấu trong túi quần và điều khiển xe mô tô đi tìm nơi sử dụng.

Khoảng 00 giờ 05 phút ngày 19/11/2019, M điều khiển xe mô tô biển số 93F8-4563 dừng trước cơ sở kinh doanh karaoke Ngọc Bội, thuộc khu phố 7, phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, lấy 01 gói ma túy tổng hợp cầm trong bàn tay trái thì bị Công an phường Thống Nhất kiểm tra phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật.Tại Cơ quan điều tra, Quách Thương M khai nhận hành vi phạm tội như trên.

(Biên bản bắt quả tang, bút lục số: 01-02; lời khai bị can, người chứng kiến, bút lục số: 33-40, 49).

Vật chứng thu giữ:

+ 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng (đã được niêm phong có chữ ký của Quách Thương M và dấu hình tròn đỏ của Công an phường Thống Nhất).

+ 01 điện thoại di động hiệu OPPO A37F, số IMEI: 862354039635113, số thuê bao: 0338525059, không liên quan đến việc phạm tội.

+ 01 xe mô tô biển số 93F8-4563, không có số máy, số khung VTWPCH0A32W005320. M khai xe mô tô của M mua của người tên Tuấn (không rõ lai lịch). Qua điều tra xác định số khung xe mô tô thu giữ không trùng khớp với thông tin đăng ký xe mô tô mang biển số 93F8-4563, Cơ quan điều tra tách ra, tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

(Bút lục số: 01-02, 03, 04, 41, 51-52) Tại Kết luận giám định số 1489/KLGĐ-PC09 ngày 27/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận:

“Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 1,2866 gam, loại Methamphetamine.” (Bút lục 14) Tại Cáo trạng số: 163/CT-VKSBH ngày 17/3/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Quách Thương M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, Khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị;

+ Áp dụng Điểm c, Khoản 1, Điều 249 và Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Quách Thương M từ: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù.

+ Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

- Lời nói sau cùng: Bị cáo không có mặt tại phiên tòa nên không có lời trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Sau khi thụ lý vụ án. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử vào lúc 08 giờ 00 phút, ngày 22 tháng 5 năm 2020. Khi liên lạc qua số điện thoại cung cấp trong hồ sơ, bị cáo đã đến trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tuy nhiên, đến thời điểm xét xử ngày 22/5/2020 thì bị cáo M vắng mặt tại phiên tòa. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã ban hành quyết định hoãn phiên tòa, mở lại vào 08 giờ, ngày 22/6/2020. Bị cáo đã nhận quyết định hoãn phiên tòa nhưng không đến chấp hành.

Tại biên bản xác minh ngày 10/6/2020, Tòa án nhân dân huyện Ph, tỉnh H đã hỗ trợ xác minh, xác định Quách Thương M có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ ấp M, xã T, huyện Ph, tỉnh H nhưng đã bỏ địa phương đi trên 10 (mười) năm. Tại biên bản xác minh ngày 29/5/2020 của Công an phường Long Bình Tân, thành phố Biên Hòa cung cấp: không có ai tên Quách Thương M đăng ký tạm trú tại địa phương, không xác định được bị cáo đang ở đâu.

Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa có văn bản yêu cầu truy nã số 489/2020/YCTN-HS ngày 10/7/2020; Cơ quan điều tra Công an Thành phố Biên Hòa có quyết định truy nã số 27 ngày 28/7/2020; sau 30 ngày, Cơ quan điều tra Công an Thành phố Biên Hòa có văn bản số 7231/CSĐT-MT ngày 04/9/2020 xác định việc truy nã không có kết quả (không bắt được bị cáo). Do đó, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa (niêm yết hợp lệ cho bị cáo M). Tại phiên tòa, bị cáo M không có mặt, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo theo quy định pháp luật.

[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Những chứng cứ xác định có tội: Quá trình điều tra, truy tố, bị cáo Quách Thương M thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố; Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định, biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào lúc 00 giờ 05 phút ngày 18/11/2019, tại trước Cơ sở kinh doanh karaoke Ngọc Bội, thuộc khu phố 7, phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Quách Thương M đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 1,2866 gam ma túy, loại Methamphetamine thì bị Công an phường Thống Nhất phát hiện, bắt quả tang.

- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người nghiện ma túy, nhận thức rõ được tác hại của ma túy nhưng vẫn tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo sau khi nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng bỏ trốn, thể hiện thái độ coi thường pháp luật, không có ý thức cải tạo.

- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Quách Thương M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, Khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, bản Cáo trạng số 136/CT-VKSBH ngày 17/3/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Quách Thương M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo các điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Quách Thương M để đảm bảo sự nghiêm minh, khoan hồng của phát luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.

[3] Về các vấn đề khác:

Đối với đối tượng (chưa rõ lai lịch) đã bán ma túy cho M, Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh, xử lý sau là phù hợp.

[4] Về vật chứng:

- Vật chứng là toàn bộ lượng ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa thu giữ sau giám định thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu OPPO A37F, số IMEI:

862354039635113, số thuê bao: 0338525059 không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho Quách Thương M.

- Đối với 01 xe mô tô biển số 93F8-4563, không có số máy, số khung VTWPCH0A32W005320. M khai mua của người tên Tuấn (không rõ lai lịch). Qua điều tra xác định số khung xe mô tô thu giữ không trùng khớp với thông tin đăng ký xe mô tô mang biển số 93F8-4563, Cơ quan điều tra tách ra, tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau là phù hợp quy định pháp luật.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Quách Thương M phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm;

[6] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị mức hình phạt là phù hợp quan điểm Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Quách Thương M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.1. Áp dụng Điểm c, Khoản 1, Điều 249, điểm s Khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Quách Thương M: 02 (hai) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giam từ ngày 19/11/2019 đến ngày 27/11/2019.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c, Khoản 1, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy sau giám định 1,1999gam trong gói niêm phong số 1489/PC09-GĐMT ngày 27/11/2019.

- Trả lại cho bị cáo Quách Thương M 01 điện thoại di động hiệu OPPO A37F, số IMEI: 862354039635113 (đã qua sử dụng, màn hình bị vỡ).

Các vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi Cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 19 tháng 3 năm 2020.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số:326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Buộc bị cáo Quách Thương M phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Bị cáo Quách Thương M được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

68
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 586/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:586/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về