Bản án 584/2020/HNGĐ-ST ngày 18/12/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHỤNG HIỆP, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 584/2020/HNGĐ-ST NGÀY 18/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 18 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 464/2020/TLST-HNGĐ, ngày 13 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 176/2020/QĐXXST-HN, ngày 16 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên toà số 104/2020/QĐST-HN, ngày 04 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Phạm Thị Thanh H, sinh năm 1984.

Địa chỉ: ấp V, xã H, huyện H, tỉnh Hậu Giang.

Chỗ ở: ấp B, xã K, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.

Bị đơn: Lý Văn T, sinh năm 1980.

Địa chỉ: ấp V, xã H, huyện H, tỉnh Hậu Giang. Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và các lời khai trong quá trình giải quyết, nguyên đơn Phạm Thị Thanh H (sau đây gọi chị H) trình bày: giữa chị và bị đơn Lý Văn T (sau đây gọi anh T) qua tìm hiểu nhau, tự nguyện quyết định đi đến hôn nhân vào năm 2003, có đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do chồng chị không quan tâm, lo lắng cho gia đình, hay ăn nhậu, mỗi lần nhậu về vợ chồng cự cãi thì chồng chị hâm dọa sẽ đâm chị, vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên hay cãi vã nhau, nhiều lần hòa giải hàn gắn tình cảm nhưng vẫn không đoàn tụ được, do sống không được nữa nên chị về nhà mẹ ruột sống khoảng 3 tháng nay. Do cuộc sống chung không hạnh phúc, chị H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

-Về hôn nhân: xin ly hôn với anh T.

-Về con chung: có hai người con chung tên Lý Khải Ng (nam), sinh ngày 14 tháng 5 năm 2004 và cháu Lý Cao Th, sinh ngày 03 tháng 5 năm 2012, hiện nay con chung sống với chồng tôi, khi ly hôn, con chung có nguyện vọng sống với ai người đó nuôi dưỡng, tại phiên tòa chị đồng ý nuôi cháu Th, anh T nuôi cháu Ng, chưa ai phải cấp dưỡng.

-Về nợ và tài sản chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Quá trình tố tụng, bị đơn Lý Văn T trình bày: Thừa nhận lời trình bày của chị H về quan hệ hôn nhân, con chung, thời gian ly thân. Về nguyên nhân mẫu thuẫn thừa nhận vợ chồng có bất đồng quan điểm nhưng không có gì lớn, anh không có đánh vợ như vợ anh trình bày, do còn thương vợ con nên anh chưa đồng ý ly hôn. Giả sử phải ly hôn, về con chung anh đồng ý để vợ nuôi cháu Th, anh nuôi cháu Ng, chưa ai phải cấp dưỡng nuôi con chung; Về tài sản và nợ chung không có, không yêu cầu giải quyết.

Quá trình giải quyết cháu Lý Khải Ng trình bày: khi cha mẹ cháu không còn sống chung với nhau, cháu có nguyện vọng sống với cha.

Quá trình giải quyết cháu Lý Cao Th trình bày: khi cha mẹ cháu không còn sống chung với nhau, cháu có nguyện vọng sống với mẹ.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: về thủ tục tố tụng: Tòa án, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đầy đủ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn; giao cháu Ng cho bị đơn nuôi dưỡng; cháu Th nguyên đơn nuôi, chưa ai phải cấp dưỡng; về nợ và tài sản chung, không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp ly hôn được qui định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.

[2] Về thủ tục tố tụng: anh Lý Văn T được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do; căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử mở phiên tòa xét xử vắng mặt đối với anh T.

[3] Xét về quan hệ hôn nhân: chị H và anh T qua tìm hiểu nhau, tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2003, đến ngày 16 tháng 7 năm 2014 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân xã Tân Phước Hưng, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp và được pháp luật thừa nhận.

[4] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị H: chị và anh T trong thời gian chung sống có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống nhưng không có giải pháp khắc phục để hoà giải, hàn gắn tình cảm mà đã chọn cách sống ly thân; xét thấy thời gian ly thân thì tự ai người đó sống, không ai quan tâm, lo lắng cho ai. Trong quá trình giải quyết, anh T chưa đồng ý ly hôn nhưng không đưa ra được giải pháp để vợ chồng đoàn tụ. Trong khi tại phiên tòa, chị H xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh T và cương quyết xin ly hôn; từ đó thấy rằng hôn nhân giữa anh, chị đã thật sự lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình có cơ sở chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H.

[5] Về con chung: có hai người con chung, anh T, chị H không tranh chấp về quyền nuôi con, các đương sự thỏa thuận được với nhau: anh T nuôi cháu Ng, chị H nuôi cháu Th, sự thỏa thuận này phù hợp với nguyện vọng của các cháu nên cần ghi nhận và anh chị có nghĩa vụ nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc khi chị H, anh T có yêu cầu khác.

[6] Về nghĩa vụ cấp dưỡng: chưa ai phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho chị H, anh T mà không ai có quyền cản trở.

[7] Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu nên không xem xét.

[8] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: nguyên đơn phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227 Bộ Luật Tố tụng dân sự. Các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: cho ly hôn giữa chị Phạm Thị Thanh H và anh Lý Văn T.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu cháu Lý Khải Ng (nam), sinh ngày 14 tháng 5 năm 2004 cho anh Lý Văn T được trực tiếp nuôi dưỡng. Giao cháu Lý Cao Th (nam), sinh ngày 03 tháng 5 năm 2012 cho chị Phạm Thị Thanh H được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc khi anh T, chị H có yêu cầu khác.

Chưa ai phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho Lý Văn T và Phạm Thị Thanh H mà không ai có quyền cản trở.

3. Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu, không xem xét.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: chị Phạm Thị Thanh H phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ từ 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0005881, ngày 13 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang thành án phí, không phải nộp thêm.

Trường hợp quyết định này được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 584/2020/HNGĐ-ST ngày 18/12/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:584/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phụng Hiệp - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về