Bản án 58/2021/HSST ngày 09/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 58/2021/HSST NGÀY 09/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án Nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 59/2021/HSST ngày 23 tháng 4 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2021/QĐXXST – HS ngày 19/5/2021 đối với bị cáo:

PHẠM MINH T, Sinh năm 1993 tại H.

Nơi ĐKNKTT: thôn An T, xã Tiên C, huyện Tiên L, TP. H. Chỗ ở trước khi bị bắt phòng 719 Khách sạn Tre X, phường T, TP.P, tỉnh G.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: lao động tự do.

Cha: Phạm Văn H - Sinh năm 1960.

Mẹ: Bùi Thị T - Sinh năm 1963.

Cha và mẹ của bị cáo hiện trú tại: thôn An T, xã Tiên C, huyện Tiên L, TP. H.

Bị cáo có 01 chị ruột sinh năm 1990, Có vợ: Nguyễn Thị Ngọc M, sinh năm: 1995 và 02 con sinh năm 2020 và 2021.

Ngày 27/5/2011 bị TAND huyện Tiên L, TP. H xử phạt 02 năm tù về tội:

“Mua bán trái phép chất ma túy“ theo khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999, chấp hành án tại Trại tạm giam công an TP.H. Ngày 06/10/2012 chấp hành xong hình phạt, lần bị kết án này Phạm Minh T đã được xóa án tích.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo Phạm Minh T bị tạm giữ từ ngày 31/12/2020 sau đó bị áp dụng biện pháp tạm giam cho đến nay tại Trại giam Công an tỉnh G. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Minh T là người có sử dụng ma túy. Khoảng 17 giờ ngày 29/12/2020, T đi chơi tại khu vực trước quán Bar Window trên đường Nguyễn H, phường Quyết T, TP.K, tỉnh K thì gặp 01 nam thanh niên tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) là người có bán ma túy nên T hỏi mua của T 03 viên ma túy (dạng thuốc lắc) với giá 900.000 đồng, T đồng ý. Sau khi mua được ma túy, T cất giấu trong người để sử dụng dần, rồi đi về TP.P, tỉnh G chơi. Khoảng 21 giờ ngày 30/12/2020, T vào quán Bar S ở số 08 đường Hoàng Văn T, phường I, TP.P nghe nhạc và uống nước. Tại đây, T lấy ma túy mua được ra sử dụng một ít. Số ma túy còn lại T cất giấu trong túi quần, rồi cùng bạn tên Phạm Văn H (chưa rõ năm sinh và địa chỉ) đến thuê phòng số 719 Khách sạn Tre X, thuộc Tổ 01, phường T, TP.P để nghỉ ngơi. Khoảng 06 giờ ngày 31/12/2020, T dậy lấy gói ma túy ra để trên bàn (lúc này H đang ngủ), lấy túi xách của T đè lên gói ma túy rồi đi tắm, do có hẹn của T 02 người bạn tên T và H (chưa rõ nhân thân, lai lịch) đến phòng 719 Khách sạn Tre X để cùng đi ăn sáng, nên sáng ngày 31/12/2021 Tvà H đến phòng của T và ngồi nói chuyện một lúc thì H, T và H đi ăn sáng, còn lại một mình T ở trong phòng. Đến 09 giờ 58 phút cùng ngày, khi T đang ở trong phòng 719 khách sạn Tre X thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh G phối hợp với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP.P kiểm tra, phát hiện bắt quả tang; thu giữ trên bàn, gồm: 01 gói nilon bên trong chứa 03 cục chất rắn màu xám (được niêm phong theo quy định); 01 điện thoại di động hiệu Iphone A1586 kèm sim số và 780.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (BL số: 20-22; 39-53).

Qua trưng cầu giám định, tại bản kết luận giám định số 65 ngày 09/01/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh G, kết luận: “03 cục chất rắn màu xám trong 01 gói nilon trong bì công văn niêm phong gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng 0,5953 gam”.

Đối với chất ma túy loại MDMA còn lại sau giám định, trong 01 bì công văn ghi số 65/PC09 ngày 09/01/2021, có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh G, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP.P chuyển theo vụ án để xử lý.

Đối với chiếc điện thoại hiệu Iphone A1586 kèm sim số và 780.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thu giữ của Phạm Minh T, qua điều tra xác định là tài sản của cá nhân bị cáo T, không liên quan đến hành vi phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP.P chuyển theo vụ án để xử lý.

Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về bản kết luận giám định số 65/KLGĐ ngày 09/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh G nói trên.

Tại bản cáo trạng số 66/CT- VKS ngày 22/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân TP.P đã truy tố đối với bị cáo Phạm Minh T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố về hành vi của bị cáo Phạm Minh T và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Phạm Minh T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Minh T mức án từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung.

- Căn cứ khoản 2 Điều 106 BLTTHS; Điều 47 BLHS;

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ghi số 65/PC09 ngày 09/01/2021 đã được niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh G.

-Tuyên trả lại cho bị cáo Phạm Minh T số tiền 780.000đ và 01 chiếc điện thoại IPhone A1586 kèm theo sim số do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Buộc bị cáo Phạm Minh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Bị cáo Phạm Minh T nói lời nói sau cùng: Xin Tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo được sớm quay về lo cho gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Pleiku, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Minh T tại phiên tòa ngày hôm nay hoàn toàn phù hợp với các tài liệu chứng cứ, các tài liệu đã thu thập được có tại hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ khẳng định: Phạm Minh T là người có sử dụng ma túy; do cần ma túy để sử dụng nên vào khoảng 17g ngày 29/12/2020, tại khu vực trước quán Bar W trên đường Nguyễn H, TP. K, tỉnh K, bị cáo đã mua ma túy của đối tượng tên T (không rõ nhân thân lai lịch) 03 viên ma túy với giá 900.000đ, sau đó bị cáo đã sử dụng một ít, số còn lại bị cáo cất giữ trong người để sử dụng dần, sau đó bị cáo về G thuê phòng 709 khách sạn Tre X để nghỉ ngơi, vào lúc 09g58p ngày 31/12/2020 khi bị cáo trong phòng thì bị Cơ quan CSĐT tội phạm về ma túy Công an tỉnh G phối hợp với CQCS điều tra Công an TP.P phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng và thu giữ của bị cáo T số tiền 780.000đ tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam và 01 ĐTDĐ hiệu IPhone A1586.

Qua trưng cầu giám định, tại bản Kết luận giám định số 65/KLGĐ ngày 09/01/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh G, kết luận: “03 cục chất rắn màu xám trong 01 gói nilon trong bì công văn niêm phong gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng 0,5953 gam”.

[3] Bản thân bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi của bị cáo là trái pháp luật, bị xã hội lên án gay gắt và pháp luật cũng trừng trị nghiêm khắc đối với loại tội phạm này, nhưng chỉ vì sống buông thả không có ý thức phấn đấu rèn luyện bản thân nên bị cáo đã bất chấp tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân. Tổng trọng lượng chất ma túy mà bị cáo mua để tàng trữ là 0,5953gam ma túy loại MDMA, bị cáo với tuổi đời còn trẻ lẽ ra bị cáo phải phấn đấu tu dưỡng rèn luyện bản, nhưng bị cáo lại sớm sa ngã vì thích đua đòi, bản thân bị cáo trước đó cũng đã bị xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nhưng bị cáo đã không lấy đó làm bài học cho bản thân mà bị cáo lại tiếp tục sử dụng ma túy, hành vi phạm tội của bị cáo đã bị bắt phạm tội quả tang. Vì vậy đã có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Phạm Minh T đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017, vì vậy cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, đồng thời gây mất trật tự trị an tại địa phương, nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng một hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như sau: trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn là lao động chính trong gia đình, vợ bị cáo mới sinh và đang nuôi hai con nhỏ, có xác nhận của chính quyền địa phương, do đó cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về xử lý vật chứng:

-Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ghi số 65/PC09 ngày 09/01/2021, có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh G.

Đối với số tiền 780.000đ và 01 điện thoại di động hiệu Iphone A1586 đã thu giữ của bị cáo Phạm Minh T là tài sản của cá nhân bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần tuyên trả lại cho bị cáo.

[7] Đối với đối tượng nam thanh niên tên T là người mà bị cáo T khai đã bán chất ma túy loại MAMD cho T vào ngày 29/12/2020, quá trình điều tra do bị cáo không biết rõ nhân thân, lai lịch; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P đã xác minh tại địa bàn phường Quyết T, TP.K, tỉnh K, nhưng chưa xác định được đối tượng T là người đã bán ma túy cho bị cáo T nên chưa có căn cứ để điều tra, xử lý. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào xác định được, sẽ xem xét và xử lý sau.

[8] Đối với đối tượng tên Phạm Văn H, T và H do bị cáo T không biết rõ nhân thân lai lịch của các đối tượng nói trên nên CQCSĐT chưa làm việc được nên chưa có căn cứ xử lý.

[9] Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Phạm Minh T. [10] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phạm Minh T: 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/12/2020.

3.Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 47 Bộ luật hình sự -Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ghi số 65/PC09 ngày 09/01/2021 đã được niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh G.

- Trả lại cho bị cáo Phạm Minh T số tiền 780.000đ và 01 ĐTDĐ hiệu Iphone A 1568 (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/5/2021 giữa Cơ quan CSĐT công an TP. P và Chi cục thi hành án dân sự TP. P).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị Quyết 326/2016/ UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Phạm Minh T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm sung vào công quỹ nhà nước.

5.Về quyền kháng cáo, thời hạn kháng cáo:

Căn cứ các Điều 331; 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Báo cho: bị cáo Phạm Minh T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án hôm nay (ngày 09/6/2021).

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2021/HSST ngày 09/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:58/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về