Bản án 58/2021/HNGĐ-ST ngày 23/06/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

 BẢN ÁN 58/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 23 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 154/2021/TLST-HNGĐ, ngày 01/4/2021 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 158/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 31/5/2021, và Quyết định hoãn phiên tòa số 136/2021/QĐST-HNGĐ ngày 15/6/2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị K, địa chỉ: XX, ấp B, thị trấn A, huyện K, tỉnh Sóc Trăng

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn S, địa chỉ: ấp B, thị trấn A, huyện K, tỉnh Sóc Trăng

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 31/3/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Nguyễn Thị K trình bày: Giữa nguyên đơn với bị đơn là ông Nguyễn Văn S tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1998, không có đăng ký kết hôn. Hai người có 02 con chung là Nguyễn Thị Kim N sinh năm 1999 và Nguyễn Văn H sinh ngày 01/01/2009. Quá trình chung sống do không cùng quan điểm, tính tình không phù hợp, nên thường xảy ra mâu thuẫn, cự cãi nhau và không thể tiếp tục cuộc sống vợ chồng. Nay bà K yêu cầu ly hôn ông S; về con chung bà K yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu H, không yêu cầu ông S cấp dưỡng, đối với cháu N đã trưởng thành và tự lập được cuộc sống riêng nên không yêu cầu giải quyết. Về tài sản chung và nợ bà K không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn là ông Nguyễn Văn S, Tòa án đã gửi Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho ông S nhưng ông S không có ý kiến trả lời, cũng không đến Tòa án để cung cấp lời khai.

Ý kiến của Viện Kiểm sát:

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa nhận xét về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án nhìn chung đều thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà K và ông S; áp dụng các Điều 81 và 82 của Luật Hôn nhân và gia đình giao cháu H cho bà K trực tiếp nuôi, ghi nhận sự tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng của bà K, đối với cháu N đã trưởng thành và sống tự lập được cuộc sống nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Ông Nguyễn Văn S là bị đơn trong vụ án mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham dự phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án, theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Xét về quan hệ hôn nhân, giữa bà Nguyễn Thị K với ông Nguyễn Văn S thuộc trường hợp nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, nên về nguyên tắc không được pháp luật công nhận là vợ chồng, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Hội đồng xét xử xác định quan hệ hôn nhân này là không hợp pháp. Từ việc hôn nhân được xem là không hợp pháp nên khi có yêu cầu ly hôn, Tòa án không xem xét mâu thuẫn của các bên để khuyến khích hòa giải đoàn tụ, hàn gắn; chỉ xem xét giải quyết các tranh chấp về nuôi con chung và tài sản chung nếu có, theo quy định tại khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: “Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này”.

Theo quy định này và trên cơ sở đề nghị của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn.

[3] Về con chung: Bà K và ông S có 02 con chung nhưng có 01 cháu (Nguyễn Thị Kim N) đã trên tuổi thành niên và tự lập được cuộc sống, nên Tòa án không xem xét giải quyết; đối với cháu Nguyễn Văn H, Tòa án đã trực tiếp hỏi và ghi nhận ý kiến trình bày về nguyện vọng của cháu H cho biết muốn được ở với mẹ nếu cha mẹ phải ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu H cho bà K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu H đủ 18 tuổi là phù hợp, đúng với yêu cầu của bà K và đáp ứng được nguyện vọng của con chung chưa thành niên trên 07 tuổi. Ông S không trực tiếp nuôi con vẫn có quyền thăm nom con, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con theo quy định tại các Điều 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Về vấn đề cấp dưỡng, trên cơ sở tự nguyện của bà K không yêu cầu cấp dưỡng, Hội đồng xét xử ghi nhận và không buộc ông S phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung và nợ: Bà K không yêu cầu Tòa án giải quyết, ông S không có yêu cầu phản tố, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[6] Về quyền kháng cáo của đương sự được thực hiện theo quy định tại các Điều 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, các Điều 147, 228, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 14, 15, 51, 53, 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn trong vụ án ly hôn và được giải quyết như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Nguyễn Thị K và ông Nguyễn Văn S.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Văn H sinh ngày 01/01/2009 cho bà Nguyễn Thị K để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu H đủ 18 tuổi; ông Nguyễn Văn S không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà K tự nguyện không yêu cầu được ghi nhận. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông S, không ai được cản trở. Đối với cháu Nguyễn Thị Kim N đã trên tuổi thành niên và tự lập được cuộc sống, đương sự không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét.

- Về tài sản chung và nợ: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn là 300.000 đồng, được khấu trừ hết vào số tiền tạm ứng án phí bà K đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009751 ngày 01/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

3. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 58/2021/HNGĐ-ST ngày 23/06/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:58/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về