Bản án 58/2021/HNGĐ-ST ngày 17/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 58/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 86/2021/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 3 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 203/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Trà M, sinh năm 2000 (Vắng mặt). Địa chỉ: Ấp T, xã L, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Anh Phạm Trung N, sinh năm 1994 (Có mặt). Địa chỉ: Khóm A, thị t, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 15 tháng 3 năm 2021, chị Nguyễn Trà M trình bày: Vào ngày 09/5/2018 chị và anh Phạm Trung N kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân thị trấn C, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau cấp giấy chứng nhận kết hôn. Trong quá trình chung sống thì giữa chị và anh N xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm và vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 14/5/2019 cho đến nay. Vì cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Phạm Trung N. Về con chung, có một người tên là Phạm Hải Đ (giới tính nam), sinh ngày 14 tháng 4 năm 2019, hiện chị đang trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Tài sản chung chị và anh N tự thỏa thuận, nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, bị đơn anh Phạm Trung N trình bày về thời gian kết hôn, có đăng ký kết hôn, mâu thuẫn và thời gian sống ly thân đúng như chị M đã khai. Sau khi chị M sinh con xong thì về nhà cha mẹ ruột sống và không muốn hàn gắn, đoàn tụ với anh nên vợ chồng đã sống ly thân cho đến nay. Do đó, chị M yêu cầu ly hôn thì anh đồng ý. Về con chung, có một người đúng như chị M đã trình bày nhưng chị M không trực tiếp nuôi con mà giao cho ông bà ngoại nuôi nên anh không đồng ý giao con chung cho chị M trực tiếp nuôi mà anh yêu cầu được nuôi con, anh không yêu cầu chị M cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nợ chung anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát: Về tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83 và 110 của Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận cho chị M ly hôn với anh N. Giao một người con chung tên là Phạm Hải Đ (giới tính nam), sinh ngày 14 tháng 4 năm 2019 cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng, buộc anh N cấp dưỡng nuôi con là 745.000 đồng/01 tháng, cấp hàng tháng. Thời gian cấp dưỡng nuôi con được tính kể từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi Phạm Hải Đ đủ 18 tuổi và có khả năng tự lao động.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Việc chị Nguyễn Trà M khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Phạm Trung N là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn anh Phạm Trung N cư trú tại khóm A, thị trấn C, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của đương sự: Chị M có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị M theo quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét về hôn nhân, chị Nguyễn Trà M và anh Phạm Trung N kết hôn và có đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nên hôn nhân giữa chị Nguyễn Trà M và anh Phạm Trung N là hôn nhân hợp pháp. Chị M và anh N đều thừa nhận quá trình chung sống giữa chị M và anh N xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc. Do không giải quyết được mâu thuẫn nên các đương sự đã sống ly thân từ ngày 14/5/2019 mà không hàn gắn, đoàn tụ được. Từ đó, chị M yêu cầu được ly hôn và anh N cũng đồng ý đối với yêu cầu ly hôn của chị M. Điều đó cho thấy tình trạng hôn nhân giữa chị M và anh N đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chấp nhận cho chị Nguyễn Trà M ly hôn với anh Phạm Trung N là có căn cứ theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung, có một người tên Phạm Hải Đ (giới tính nam), sinh ngày 14 tháng 4 năm 2019. Chị M và anh N đều có yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Tại khoản 3 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình quy định “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”. Xét thấy, Phạm Hải Đ hiện dưới 36 tháng tuổi và đang do chị M trực tiếp nuôi dưỡng, anh N cho rằng chị M không trực tiếp nuôi dưỡng con chung nhưng anh N không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình cũng như chứng minh việc chị M không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Do đó, giao Phạm Hải Đ (giới tính nam), sinh ngày 14 tháng 4 năm 2019 cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng là đúng với quy định của pháp luật.

Chị M yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Tại khoản 3 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình quy định “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Từ đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị M, buộc anh N cấp dưỡng nuôi con với mức cấp dưỡng là 745.000 đồng/01 tháng, cấp hàng tháng. Thời gian cấp dưỡng nuôi con được tính kể từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi Phạm Hải Đ đủ 18 tuổi và có khả năng tự lao động.

[4] Chị Nguyễn Trà M xác định tài sản chung tự thỏa thuận và nợ chung không có. Anh Phạm Trung N chưa yêu cầu Tòa án giải quyết về vấn đề trên nên không đặt ra xem xét.

[5] Do đó, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ để chấp nhận.

[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị Nguyễn Trà M phải chịu, anh Phạm Trung N phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại điểm a khoản 5 và điểm b khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 và điểm b khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83, 110, 116 và 117 của Luật hôn nhân và gia đình.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Nguyễn Trà M ly hôn với anh Phạm Trung N.

2. Về con chung, giao chị Nguyễn Trà M trực tiếp nuôi dưỡng Phạm Hải Đ (giới tính nam), sinh ngày 14 tháng 4 năm 2019.

Anh Phạm Trung N cấp dưỡng nuôi con với mức cấp dưỡng là 745.000 đồng/01 tháng, cấp hàng tháng. Thời gian cấp dưỡng nuôi con được tính kể từ ngày xét xử sơ thẩm (ngày 17/5/2021) cho đến khi Phạm Hải Đ đủ 18 tuổi và có khả năng tự lao động.

Anh Phạm Trung N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

3. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, chị Nguyễn Trà M phải chịu 300.000 đồng nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0012265, ngày 17 tháng 3 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau nay đối trừ chị Nguyễn Trà M đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Án phí cấp dưỡng nuôi con anh Phạm Trung N phải chịu 300.000 đồng.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Anh Phạm Trung N có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Nguyễn Trà M có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2021/HNGĐ-ST ngày 17/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:58/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về