Bản án 58/2019/HS-ST ngày 19/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH - TP. HCM

BẢN ÁN 58/2019/HS-ST NGÀY 19/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 19 tháng 3 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 02/2019/TLST-HS ngày 02/01/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2019/QĐXXST-HS ngày 05/3/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thanh S; giới tính: Nam; sinh ngày 02/6/2001; nơi sinh: Tỉnh Trà Vinh; nơi ĐKHKTT: Ấp Mé Láng, xã N, huyện D, tỉnh Trà Vinh; chỗ ở: 14/1 ấp 3, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Không; họ tên cha: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1976; họ tên mẹ: Phan Thị Quê H, sinh năm 1974; hoàn cảnh gia đình: Bị cáo chưa có vợ con.

Nhân thân:

Ngày 10/7/2018, bị Công an xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt vi phạm hành chính số tiền 365.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma tuý”, theo Quyết định số 82/QĐ-XPHC, đã đóng phạt;

Ngày 22/7/2018, bị Công an xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, theo Quyết định số 0038020, đã đóng phạt;

Ngày 27/12/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo Bản án số 109/2018/HS-ST, hiện đang chấp hành án tại Trại tạm giam Công an tỉnh Long An theo Quyết định Thi hành án phạt tù số 08/2019/QĐ-CA ngày 28/01/2019 của Chánh án Toà án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

Tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ, tạm giam ngày 25/7/2018; bị cáo có mặt tại toà.

Người đại diện hợp pháp cho bị cáo:

1. Bà Phan Thị Quê H, sinh năm 1974 (Có mặt).

2. Ông Nguyễn Văn Đỏ, sinh năm 1976 (Có mặt).

Cả hai cùng nơi ĐKHKTT: Ấp Mé Láng, xã N, huyện D, tỉnh Trà Vinh; cùng chỗ ở: 14/1 ấp 3, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh (Cả hai có mặt).

Người bào chữa: Ông Bùi Trường C – Là luật sư văn phòng luật sư Trường Chinh thuộc đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh là người bào chữa chỉ định cho bị cáo (Có mặt).

Bị hại: Bà Mai Thu A, sinh năm 1980; nơi ĐKHKTT: E4/27 ấp 5, xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 02/7/2018, Nguyễn Thanh S đi bộ trên đường Thích Thiện Hoà để đến nhà bạn. Khi đến trước nhà số E4/27 ấp 5, xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh thì S phát hiện xe mô tô biển số 62N1 – 212.89 của Mai Thu A đang dựng trước nhà, trên xe còn gắn chìa khoá nên nảy sinh ý định trộm cắp. S đi qua xe mô tô khoảng 04 mét thì gặp một người bạn (không rõ lai lịch) rủ S đi chơi Internet nên S lên xe của người này và rủ cùng trộm xe mô tô biển số 62N1 – 212.89 nhưng người bạn này không đồng ý; S xuống xe còn người này bỏ đi. Sau đó, S đi bộ đến xe mô tô trên leo lên xe, nổ máy điều khiển xe tẩu thoát về hướng xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh. Lúc này, người nhà chị A nhìn thấy nên tri hô, đuổi theo S nhưng không kịp nên chị A thuê xe ôm đến Công an xã Lê Minh Xuân trình báo sự việc. Trên đường đi, khi đến đoạn đường Trần Đại Nghĩa – KCN Lê Minh Xuân thì chị A thấy anh Trần Thanh P đang cùng tổ Cảnh sát giao thông Công an huyện Bình Chánh đang đi tuần tra giao thông nên chị A đến trình báo, cung cấp đặc điểm xe mô tô biển số 62N1 – 212.89 rồi tiếp tục đến Công an xã Lê Minh Xuân trình báo. Một lát sau, anh Phong cùng tổ công tác phát hiện S điều khiển xe mô tô của chị A chạy ngang qua nên tiến hành truy đuổi. Khi đến đường số 18 thuộc ấp 2, xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh thì bắt giữ được S cùng với tang vật là xe mô tô, bàn giao cho Công an xã Lê Minh Xuân, Công an xã lập hồ sơ ban đầu cùng vật chứng chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh để điều tra, giải quyết theo thẩm quyền.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh thì Nguyễn Thanh S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Căn cứ vào Kết quả định giá tài sản số 1341/HĐĐG-TTHS-TCKH ngày 30/7/2018 và Kết quả định giá tài sản số 2319/HĐĐG-TTHS-TCKH ngày 23/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Bình Chánh xác định: 01 xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 62N1-212.89 mà Nguyễn Thanh S chiếm đoạt có giá trị là 9.135.000 đồng.

Vật chứng vụ án gồm: 01 xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 62N1 – 212.89, Cơ quan điều tra đã giao trả cho bị hại Mai Thu A (BL: 109a).

Tại bản Cáo trạng số 11/CT - VKS ngày 12 tháng 12 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh S về tội "Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Thanh S đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình giống như lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh truy tố bị cáo. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa hôm nay, Vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi nêu tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất của vụ án những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và tổng hợp hình phạt 02 năm tù của Bản án số 109/2018/HS-ST ngày 27/12/2018 của Toà án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

Người bào chữa cho bị cáo có ý kiến phát biểu: Hành vi phạm tội của bị cáo S thực hiện theo Cáo trạng Viện kiểm sát huyện Bình Chánh truy tố là đúng người, đúng pháp luật nên luật sư không tranh luận về tội danh cũng như điều luật Viện kiểm sát truy tố. Tuy nhiên, luật sư nêu các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, tài sản kịp thời thu hồi giao trả cho bị hại, thiệt hại chưa xảy ra, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; khi phạm tội và đưa vụ án ra xét xử bị cáo là người dưới 18 tuổi nên trình độ nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Gia đình bị cáo có ông bà ngoại là người có công với cách mạng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử bị cáo mức thấp hơn hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị cũng đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo S thống nhất với lời phát biểu bào chữa của luật sư, không trình bày gì thêm và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho con ông bà.

Bị hại Mai Thu A đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do, tuy nhiên các chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án thể hiện bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu gì về dân sự .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Thanh S tại tòa là phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra (BL: 62 – 72); phù hợp với lời khai của bị hại Mai Thu A (BL: 79 – 85); phù hợp với các chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Vụ án còn được chứng minh qua hoạt động điều tra như biên bản lấy lời khai, thu giữ vật chứng, kết quả định giá tài sản, khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra…cùng các chứng cứ tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

[3] Ngày 02/7/2018, bị cáo Nguyễn Thanh S đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 xe mô tô biển số 62N1- 212.89 có trị giá 9.135.000 đồng. (Theo Kết quả định giá tài sản số 1341/HĐĐG - TTHS - TCKH ngày 30/7/2018 và Kết quả định giá tài sản số 2319/HĐĐG - TTHS - TCKH ngày 23/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Bình Chánh) của bà Mai Thu A tại trước nhà số E4/27 ấp 5, xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[4] Với những tình tiết được chứng minh trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thanh S đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được qui định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); nên Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phồ Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo với tội danh nêu trên là đúng người, đúng tội.

[5] Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, mục đích phạm tội là muốn có tiền tiêu xài cho bản thân. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc làm của mình là sai trái, là vi phạm pháp luật nhưng bản tính tham lam, biếng lười lao động nên bị cáo cố ý phạm tội. Tội phạm bị cáo thực hiện là nguy hại cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội. Do đó, khi lượng hình cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn một thời thì mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

[6] Về nhân thân bị cáo: Bị cáo có nhân thân rất xấu, cụ thể: Ngày 10/7/2018, bị Công an xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt vi phạm hành chính số tiền 365.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma tuý”, theo Quyết định số 82/QĐ-XPHC; ngày 22/7/2018, bị Công an xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, theo Quyết định số 0038020; và ngày 27/12/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo Bản án số 109/2018/HSST (Án đã có hiệu lực pháp luật, hiện đang chấp hành án tại Trại giam Công an tỉnh Long An). Do đó, cần áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để tổng hợp hình phạt của bản án này và khi lượng hình Hội đồng xét xử lưu ý đến nhân thân của bị cáo mà có mức án nghiêm.

[7] Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần cân nhắc đến các tình tiết bị cáo thành khẩn khai báo và đã tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tài sản kịp thời thu hồi giao trả cho bị hại, thiệt hại chưa xảy ra; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có ông bà ngoại là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhất, huân chương chiến sĩ giải phóng hạng nhì. Khi phạm tội và đưa vụ án ra xét xử bị cáo là người dưới 18 tuổi. Xét các tình tiết giảm nhẹ nêu trên để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt được qui định tại các Điểm h, i, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51; Điều 91; Khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ, sung năm 2017) mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[8] Vật chứng của vụ án: Đối với 01 xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 62N1 – 212.89, Cơ quan điều tra đã giao trả cho bị hại Mai Thu A, theo Biên bản về việc trả lại tài sản được lập vào hồi 16 giờ 30 phút ngày 26/7/2018 (BL: 109a), Hội đồng xét xử ghi nhận.

[9] Về dân sự: Bị hại Mai Thu A không yêu cầu gì nên không đặt ra giải quyết.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo qui định tại tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ Khoản 1 Điều 173; Điểm h, i, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51; Điều 56; Điều 91; Khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S 01 (Một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt 02 năm tù của Bản án số 109/2018/HS-ST ngày 27/12/2018 của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai Bản án là 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/7/2018.

Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, luật sư bào chữa chỉ định được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, tính kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, tính từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết theo qui định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2019/HS-ST ngày 19/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:58/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về