Bản án 58/2019/HSST ngày 16/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 58/2019/HSST NGÀY 16/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16/4/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 58/2019/HSST ngày 29/3/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2019/HSST-QĐ ngày 02/4/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Sồng A S, sinh năm 1964 tại huyện B, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản K, xã N, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): Không; dân tộc: Mông; giới tính : Nam; tôn giao : Theo đạo tin lành; quôc tich: Viêt Nam; con ông Sồng A N và bà Hạng Thị Ư (đều đã chết); bị cáo có vợ là Thào Thị M, sinh năm 1959, hiện đang bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La, có 06 con, con lớn sinh năm 1993, con nhỏ sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/01/2019 đến ngày 25/01/2019. Ngày 26/01/2019 thì bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Đến ngày 28 tháng 3 năm 2019 bị Công an tỉnh Sơn La bắt tạm giữ tạm giam cho đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 05 giờ 00 phút ngày 19/01/2019 Sồng A S một mình điều khiển xe máy nhãn hiệu ESPERO, BKS: 26AA-139.42 đi từ nhà ở đến bản Suối Thín, xã Chiềng Sơn, huyện Mộc Châu, S tìm được một lán nương bỏ hoang và ở đó từ ngày 19/01/2019 đến ngày 22/01/2019 để đi tìm cây thuốc. Đến sáng ngày 22/01/2019 S đi bộ lên rừng tìm cây thuốc thì gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết khoảng 30 tuổi nên nảy sinh ý định mua Heroine để sử dụng cho bản thân nghiện chất ma túy. Qua trao đổi S mua được của người phụ nữ dân tộc Mông đó 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng Heroine với giá 3.000.000 đồng, sau đó S cất giấu gói Heroine vào túi áo khoác bên phải đang mặc và tiếp tục đi tìm cây thuốc. Sau khi tìm được cây thuốc S vào bụi cây lấy một ít Heroine ra sử dụng hết, số Heroine còn lại S gói lại và cất vào túi áo khoác bên phải đang mặc để sử dụng dần. Sau khi sử dụng Heroine xong, S đi về lán nương bỏ hoang lấy xe máy và đồ để về nhà. Khi S điều khiển xe máy đi đến tiểu khu 19/5, xã Chiềng Sơn, huyện Mộc Châu thì bị tổ công tác Đồn Biên phòng cửa khẩu Lóng Sập đang làm nhiệm vụ, kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 gói Heroine bên ngoài gói bằng lớp nilon màu xanh. Tạm giữ: 01 xe máy nhãn hiệu ESPERO, BKS: 26AA-139.42; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên Sồng A S; 01 điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI màu xanh kèm 02 sim.

Ngày 23/01/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu và Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã mở niêm phong, xác định khối lượng 01 gói bột màu trắng nghi là Heroine thu giữ của Sồng A S được khối lượng 4,53 gam, lấy 0,21 gam làm mẫu gửi giám định, mẫu ký hiệu S, xác định mẫu gửi giám định có phải là ma túy không? Là loại ma túy gì? Khối lượng của mẫu gửi giám định là bao nhiêu? Tổng khối lượng vật chứng thu giữ?.

Tại kết luận giám định số 277 ngày 24/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:“Mẫu gửi giám định ký hiệu S là ma túy; loại Heroine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,21 gam; Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 4,53 gam; loại Heroine”.

Tại bản cáo trạng số: 54/CT-VKSMC ngày 27/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã truy tố bị cáo với nội dung: Truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Mộc Châu để xét xử đối với bị can Sồng A S về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Sồng A S phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy và áp dụng các căn cứ pháp luật như sau:

1. Căn cứ điểm c khoản 1, 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2, 3 Điều 35 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Sồng A S từ 4 năm đến 4 năm 6 tháng tù.

Phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo số tiền 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tạm giữ 01 xe máy nhãn hiệu ESPERO màu sơn đồng bạc, BKS: 26AA- 139.42, sm: 39FMB3430606, sk: B4PEJA430606, xe đã qua sử dụng cũ, không kiểm tra máy móc bên trong; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 012876 mang tên Sồng A S; 01 điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI màu xanh, kèm 02 sim thu giữ của bị cáo Sồng A S để đảm bảo thi hành án về phần hình phạt bổ sung và án phí.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 4,32 gam Heroine và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Sồng A S.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với nội dung cáo trạng và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về quá trình tiến hành tố tụng:

Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi và trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên toà, bị cáo Sồng A S giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 22 giờ 00 phút ngày 22/01/2019; phù hợp với vật chứng đã thu giữ; biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định; kết luận giám định; lời khai của người chứng kiến sự việc và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận:

Ngày 22/01/2019 bị cáo Sồng A S đã có hành vi cất giấu trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 4,53 gam, mục đích để sử dụng cho việc nghiện ma túy của bản thân. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới chế độ quản lý độc quyền chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.

Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện chất ma túy, bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung - phạt tiền: Quá trình bắt giữ có thu giữ của bị cáo Sồng A S 01 xe máy nhãn hiệu ESPERO, BKS: 26AA-139.42; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên Sồng A S; 01 điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI màu xanh kèm 02 sim xét là tài sản hợp pháp của bị cáo, bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội, do đó cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

[4] Đối với người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo , do bị cáo không biết lai lịch, địa chỉ vì vậy không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu ESPERO màu sơn đồng bạc, BKS: 26AA-139.42, sm: 39FMB3430606, sk: B4PEJA430606, xe đã qua sử dụng cũ, không kiểm tra máy móc bên trong; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 012876 mang tên Sồng A S; 01 điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI màu xanh, kèm 02 sim thu giữ của bị cáo Sồng A S, xét là tài sản hợp pháp của bị cáo do đó cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án về phần hình phạt bổ sung và phần án phí đối với bị cáo.

Đối với: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 4,32 gam Heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Sồng A S xét là vật nhà nước cấm lưu hành, vật không có giá trị sử dụng, do đó cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Xét thời hạn tạm giam của bị cáo còn trên 45 ngày Hội đồng xét xử không ra quyết định tạm giam đối với bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Sồng A S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

1. Căn cứ điểm c khoản 1, 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2, 3 Điều 35 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Sồng A S 4 (Bốn) năm 6 (Sáu) tháng tù.

Bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ là 03 ngày, bị cáo còn phải thi hành tiếp là 4 (Bốn) năm 5 (Năm) tháng 27 (Hai mươi bảy) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28 tháng 3 năm 2019. Phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo số tiền 1.000.000 (Một triệu) đồng.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tạm giữ 01 xe máy nhãn hiệu ESPERO màu sơn đồng bạc, BKS: 26AA-139.42, sm: 39FMB3430606, sk: B4PEJA430606, xe đã qua sử dụng cũ, không kiểm tra máy móc bên trong; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 012876 mang tên Sồng A S; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi điện thoại di động thu giữ của Sồng A S bên trong đựng 01 điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI màu xanh, kèm 02 sim thu giữ của bị cáo Sồng A S để đảm bảo thi hành án về phần hình phạt bổ sung và án phí đối với bị cáo Sồng A S.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 4,32 gam Heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Sồng A S.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Sồng A S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng chẵn).

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2019/HSST ngày 16/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:58/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về