TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 58/2019/HS-PT NGÀY 16/08/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 16 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 78/2019/TLPT-HS ngày 01 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo Lường Văn A và đồng phạm, do có kháng cáo của các bị cáo Lường Văn A, Lường Văn K đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 13/2019/HS-ST ngày 22/05/2019 của Toà án nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
- Các bị cáo có kháng cáo
1. Lường Văn A, sinh ngày 25 tháng 4 năm 1982 tại huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Thôn N, xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn L, sinh năm 1958 và bà Dương Thị N, sinh năm 1961; có vợ Dương Thị D, sinh năm 1983; có 01 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật; bị tạm giữ ngày 15-01-2019 đến ngày 21-01-2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn sang cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại; có mặt.
2. Lường Văn K, sinh ngày 16 tháng 10 năm 1988 tại huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Thôn N, xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1961 và bà Lường Thị C, sinh năm 1960; có vợ Dương Thị V, sinh năm 1987; có 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật; bị tạm giữ ngày 17-01-2019 đến ngày 23-01-2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn sang cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại; có mặt.
- Ngoài ra trong vụ án còn có 10 bị cáo khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ ngày 15-01-2019, sau khi ăn đám cưới xong, Lường Văn L, Lường Văn A, Lường Văn C, Vy Văn H rủ nhau đến nhà Lường Văn L để đánh bài tú lơ khơ (bằng hình thức chơi liêng). Trong lúc đang chơi có Lường Văn K, Đàm Minh H, Hoàng Doãn C đến chơi cùng. Chơi được khoảng 20 phút thì Lường Văn L không cho chơi tại nhà của mình nên cả nhóm rủ nhau lên đồi C thuộc thôn N, xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn để đánh xóc đĩa. Khi mọi người đang đánh bạc thì có thêm năm người đến tham gia đánh bạc cùng gồm Lường Văn S, Lường Văn G, Lường Văn D, Nguyễn Văn B, Lường Văn K. Khi bắt đầu đánh bạc, Lường Văn A là người cầm cái, sau đó gần cuối thì chuyển lại cho Lường Văn K cầm cái để mọi người đặt tiền chơi. Cách thức đánh bạc như sau: Bên tay phải người cầm cái sóc là bên chẵn, bên tay trái là lẻ, người cầm cái sóc bằng một chiếc bát được úp trên một chiếc đĩa bằng sứ, bên trong có 04 quân vị và sóc nhiều lần rồi đặt xuống, khi đó mọi người đánh bắt đầu thả tiền xuống hai bên chẵn, lẻ số tiền đặt cửa tùy khả năng của từng người, thấp nhất là 10.000 đồng đến 100.000 đồng. Khi mở bát ra, nếu mặt quân vị quay lên trên là 02 quân màu xám hoặc 02 quân màu đỏ hoặc 04 quân màu xám hoặc 04 quân màu đỏ thì kết quả ván bạc là chẵn, người nào đặt tiền bên chẵn thì thắng, người cầm cái sẽ phải trả số tiền tương ứng với số tiền người chơi đã đặt. Ngược lại, nếu quân vị quay lên trên là 03 mặt xám, 01 mặt đỏ hoặc 03 mặt đỏ, 01 mặt xám thì kết quả ván bạc là lẻ, người nào đặt tiền bên lẻ thì thắng. Cả nhóm đánh bạc đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày thì bị cơ quan chức năng phát hiện, một số đối tượng cầm theo tiền bỏ chạy, một số đã bị bắt giữ; thu trên chiếu bạc số tiền 5.400.000 đồng, 01 bộ bát đĩa bằng sứ, 04 quân xóc đĩa, cùng một số vật chứng khác liên quan đến hành vi đánh bạc.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 13/2019/HS-ST ngày 22-5-2019 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã tuyên bố 12 bị cáo trong đó có bị cáo Lường Văn A và Lường Văn K phạm tội Đánh bạc. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Lường Văn A 09 (chín) tháng tù; xử phạt bị cáo Lường Văn K 09 (chín) tháng tù. Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên hình phạt đối với 10 bị cáo khác, tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo theo quy định của pháp luật.
Trong thời hạn luật định các bị cáo Lường Văn A, Lường Văn K có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Lường Văn A và Lường Văn K giữ nguyên nội dung kháng cáo xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Bản án sơ thẩm kết án bị cáo Lường Văn A, Lường Văn K về tội Đánh bạc là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đối với bị cáo Lường Văn A: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng nhân thân, vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như đã xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và ấn định mức hình phạt 09 tháng tù đối với bị cáo là phù hợp, có đủ sức để răn đe tội phạm và phòng ngừa chung. Bị cáo tham gia đánh bạc từ đầu, là người cầm cái trong suốt một thời gian dài, là người giữ vai trò chính nên không đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Đối với bị cáo Lường Văn K: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cũng như đã xem xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét đến việc bị cáo Lường Văn K ra đầu thú là thiếu sót. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lường Văn K xuất trình thêm Đơn xin được hưởng án treo nêu rõ hoàn cảnh bản thân và gia đình, có xác nhận của chính quyền địa phương. Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 357, Điều 356, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Lường Văn A; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lường Văn K, cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa, các bị cáo Lường Văn A, Lường Văn K đều thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của các bị cáo khác không kháng cáo và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở để kết luận: Từ khoảng 13 giờ đến 15 giờ 30 phút, ngày 15-01-2019 tại khu đồi C thuộc thôn N, xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn các bị cáo Lường Văn A, Lường Văn K, Đàm Minh H, Lường Văn L, Lường Văn K, Lường Văn C, Hoàng Doãn C, Lường Văn S, Lường Văn G, Vy Văn H, Lường Văn D, Nguyễn Văn B đã có hành vi đánh bạc dưới hình thức chơi xóc đĩa sát phạt nhau bằng tiền. Tổng số tiền dùng để đánh bạc là 5.400.000 đồng. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan.
[2] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Lường Văn A, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, đồng thời đã xem xét nhân thân, vai trò và áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm ấn định mức hình phạt 09 tháng tù đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Bị cáo là người giữ vai trò chính; là người cầm cái đầu tiên, trong một thời gian dài; là người trực tiếp tham gia đánh bạc từ đầu đến khi bị bắt; là người mang theo chiếc kéo từ nhà Lường Văn L, rồi dùng kéo cắt bài tú lơ khơ làm quân vị phục vụ cho việc đánh bạc. Đối chiếu với các quy định tại Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự 2015 về án treo, bị cáo không có đủ điều kiện được hưởng án treo nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lường Văn A.
[3] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Lường Văn K, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét vai trò, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo theo quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; cụ thể: Bị cáo có cầm cái thay cho bị cáo Lường Văn A nhưng chỉ trong một thời gian ngắn. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; gia đình bị cáo có công với cách mạng (gia đình liệt sỹ); mẹ bị cáo có thời gian tham gia dân công hỏa tuyến được hưởng chế độ theo quy định. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét đến tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự về việc bị cáo ra đầu thú là thiếu sót. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lường Văn K xuất trình thêm Đơn xin được hưởng án treo nêu rõ hoàn cảnh bản thân và gia đình, có xác nhận của chính quyền địa phương. Bị cáo có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này luôn chấp hành đúng chính sách pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú; bị cáo có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng; có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; trong thời gian tại ngoại vừa qua không có hành vi bỏ trốn hay vi phạm pháp luật; có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, không ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đối chiếu với các quy định tại Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự 2015 về án treo, bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo.
[4] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn tại phiên tòa là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội đã xảy ra, đúng với các quy định của pháp luật về xử lý đối với hành vi trên nên Hội đồng xét xử chấp nhận
[5] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, điểm b, h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Lường Văn A phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm; do kháng cáo của bị cáo Lường Văn K được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[6] Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; không chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Lường Văn A, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 13/2019/HS-ST ngày 22 tháng 5 năm 2019 của Toà án nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn đối với phần hình phạt tù của bị cáo Lường Văn A, cụ thể như sau: Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, 58 của Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Lường Văn A 09 (chín) tháng tù về tội Đánh bạc. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án và được trừ đi thời gian bắt để tạm giữ là 07 (bẩy) ngày (từ ngày 15-01-2019 đến ngày 21-01-2019).
2. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Lường Văn K; sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số: 13/2019/HS-ST ngày 22 tháng 5 năm 2019 của Toà án nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn đối với phần hình phạt tù của bị cáo Lường Văn K, cụ thể như sau: Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, 58, khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Lường Văn K 09 (chín) tháng tù; cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm là ngày 16-8-2019 về tội Đánh bạc.
Giao bị cáo Lường Văn K cho Uỷ ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Về án phí hình sự phúc thẩm Căn cứ khoản 2 Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, điểm b, h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Bị cáo Lường Văn A phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm để sung quỹ Nhà nước.
Bị cáo Lường Văn K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các phần quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 58/2019/HS-PT ngày 16/08/2019 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 58/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về