TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 58/2019/HNGĐ-PT NGÀY 04/11/2019 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN
Ngày 04 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 51/2019/TLPT-HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2019 về việc: “Tranh chấp yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn”. Do bản án sơ thẩm số 234/2019/HNGĐ-ST ngày 04/09/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2019/QĐ-PT ngày 17 tháng 10 năm 2019 giữa:
1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Xuân D, sinh năm 1983.
Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
2. Bị đơn: Chị Lê Thị T, sinh năm 1989.
Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị Th, sinh 1969.
Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa
Tại phiên toà: Các bên đương sự đều có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
-Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết tại Tòa án, nguyên đơn anh Nguyễn Xuân D trình bày: Anh và chị Lê Thị T đã từng là vợ chồng, có đăng ký kết hôn và có hai con chung, vợ chồng mâu thuẫn nên chị T làm đơn ly hôn và đã được Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 126 ngày 22/5/2018. Trong quyết định nêu anh và chị T được ly hôn, anh trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Xuân Anh, sinh ngày 23/3/2010, chị T trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Xuân H sinh ngày 13/5/2013. Nay anh làm đơn yêu cầu được đưa cháu Nguyễn Xuân H về nuôi dưỡng với những lý do:
Sau khi ly hôn chị T đã lấy chồng để con lại cho bố mẹ đẻ đã già hết tuổi lao động nuôi thêm cháu Xuân H nữa là 4 cháu. Bản thân anh đã lấy vợ nhưng vợ anh vô sinh, gia đình anh hiện nay 04 người đều có thu nhập ổn định, anh có nhà riêng gần trường, anh lại là đại biểu Hội đồng nhân dân xã nên có đủ điều kiện về vật chất và tinh thần để đem cháu Xuân H về nuôi cùng cháu Xuân Anh cho có anh có em. Chị T chưa đăng ký kết hôn, chồng chị T theo đạo, hai vợ chồng làm nghề hút cát dưới sông, ông bà ngoại kinh doanh bi-a là môi trường không tốt và cũng không có thời gian chăm sóc cháu, cho đến nay cháu mới 13 kg là còi cọc so với bạn bè cùng lứa; bản thân anh làm nghề sửa xe máy ở nhà cả ngày có thời gian chăm sóc con, đưa đón con đi học hàng ngày.
Nếu được nuôi cháu Xuân H anh không yêu cầu chị T cấp dưỡng.
- Bị đơn chị Lê Thị T trình bày: Không đồng ý với yêu khởi kiện xin thay đổi người nuôi con sau ly hôn của anh Nguyễn Xuân D với lý do:
Quyết định công nhận thuận tình ly hôn mà Tòa án huyện Hoằng Hóa ban hành năm 2018 là kết quả của sự thỏa thuận giữa hai bên, trong đó anh D và chị đã thống nhất anh nuôi cháu Xuân Anh, chị nuôi cháu Xuân H. Từ đó đến nay anh lấy vợ, chị lấy chồng nhưng việc nuôi con của các bên đều rất tốt, các cháu vẫn được gần mẹ, gần bố, gần anh gần em và ông bà nội ngoại của nhau, chưa có điều tiếng gì về việc nuôi con sau ly hôn đặc biệt là đối với cháu Xuân H. Bản thân chị khi ly hôn có nguyện vọng nuôi cả hai cháu và muốn các cháu có anh có em, được gần gũi mẹ qua thời kỳ cần chăm sóc rồi các cháu lớn theo ai là tùy. Chị là người mẹ, chị cũng được quyền làm mẹ, vợ anh D vô sinh còn chồng chị cũng không nuôi con riêng, như vậy mỗi bên nuôi một cháu là phù hợp.
Anh D cho rằng anh có điều kiện kinh tế hơn, nhưng theo chị mỗi người mỗi việc, anh D làm nghề sửa xe máy thì vợ chồng chị có nghề hút cát, có phương tiện trị giá 1 tỷ đồng, thu nhập 20 đến 30 triệu mỗi tháng, chồng chị là người có phẩm chất tốt đủ để mang lại hạnh phúc cho con. Mặt khác chị cũng có ý định mua đất làm nhà tại quê mẹ để duy trì ổn định cuộc sống như lâu nay.
- Bà Trần Thị Th trình bày: Bà là mẹ của chị T và là bà ngoại cháu Xuân H, là người trực tiếp trông nom chăm sóc cả hai cháu cho anh chị từ khi mới sinh, sau khi ly hôn chị T đi bước nữa có nhờ ông bà chăm nom cháu là đương nhiên, thậm chí ông bà phải trông nom cháu tốt hơn để bù đắp sự thiệt thòi của cháu. Là người nuôi cháu từ bé nên bà biết cháu là trẻ sinh thiếu tháng, hơn nữa bố mẹ cháu đều có thể trạng nhỏ bé nên cháu có thể cháu giống gel của bố mẹ. Từ nhỏ cháu đã được chăm sóc bởi bên ngoại cho đến nay mọi việc vẫn bình thường tốt đẹp, ông bà sẵn sàng hỗ trợ trông nom con cái cho tất cả các con đi làm xây dựng kinh tế cho tương lai sau này, không phải chỉ mình chị T. Nay anh D làm đơn thay đổi muốn đón cháu Xuân H ở thời điểm này là không phù hợp, vì lâu nay cháu ở với ông bà và các anh chị em, môi trường sinh sống của cháu rất tốt với tuổi của cháu, nên cứ để như lâu nay, sau này cháu lớn lên muốn theo ai là quyền của cháu.
Tại Bản án sơ thẩm số 234/2019/HNGĐ-ST ngày 04/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa đã Quyết định:
Áp dụng: Điều 81; 83; 84 Luật Hôn nhân và gia đình: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc xin thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của anh Nguyễn Xuân D.
Tiếp tục giao cháu Nguyễn Xuân H, sinh ngày 13/5/2013 cho chị Lê Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh D có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung không ai được cản trở Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 16 tháng 9 năm 2019, anh Nguyễn Xuân D có đơn kháng cáo với nội D:
Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giao cháu Nguyễn Xuân H cho anh nuôi không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con với lý do: Chị T điều kiện đi làm ăn xa để mưu sinh, thi thoảng mới về nhà nên không trực tiếp chăm sóc cháu Nguyễn Xuân H mà giao lại cho bố mẹ đẻ đã già yếu chăm sóc, đưa đón đi học là không đảm bảo an toàn, nhà bố mẹ đẻ chị T kinh doanh quán bia nên không đảm bảo môi trường tốt cho cháu H phát triển nhân cách và lối sống.
Tại phiên tòa phúc thẩm, anh D giữ nguyên kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa phát biểu quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình thụ lý và tại phiên tòa phúc thẩm tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự không chấp nhận kháng cáo của anh D, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh luận của các bên, ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Đơn kháng cáo của anh Nguyễn Xuân D nộp trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét đơn kháng cáo của anh Nguyễn Xuân D thấy rằng:
Việc anh D xin trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Xuân H cho đến khi cháu thành niên là nguyện vọng chính đáng, xuất phát từ tình cảm và trách nhiệm của người cha đối với con. Tuy nhiên, anh chị có 02 con chung, sau khi ly hôn, anh đang trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Xuân Anh (09 tuổi) và chị T nuôi cháu Nguyễn Xuân H (06 tuổi). Hiện nay cháu Xuân H chưa đủ tuổi để Tòa án hỏi nguyện vọng của cháu theo quy định của Luật hôn nhân gia đình. Tuy nhiên, kết quả xác minh tại địa phương không có ý kiến gì về việc hiện nay chị T nuôi dưỡng cháu Xuân H là không tốt, chị T được sự hỗ trợ của bố mẹ đẻ vẫn chăm sóc chu đáo, đảm bảo cho cháu Xuân H phát triển khỏe mạnh bình thường về mọi mặt. Tại phiên tòa phúc thẩm bố mẹ đẻ của chị T có mặt và không phải đã già yếu như trong đơn kháng cáo của anh D, ngược lại còn trẻ, khỏe và trình bày sẽ hỗ trợ cho chị T về mọi mặt. Về thu nhập, anh D cho rằng chị T bấp bênh, tuy nhiên cũng không có căn cứ là chị không đủ điều kiện chi phí sinh hoạt, học tập đầy đủ cho con. Chị T trình bày chồng mới của chị cũng có tình cảm yêu thương cháu Xuân H, hiện nay cháu đã vào năm học nên chồng chị tạo điều kiện cho chị được ở nhà để chăm sóc đưa đón con (chị T xuất trình giấy xác nhận của chính quyền hiện nay chị đã về sinh sống tại địa phương). Mặt khác, trong điều kiện thu nhập hiện tại của anh D, việc giao cả hai con trong độ tuổi ăn học cho anh trực tiếp nuôi dưỡng cũng sẽ gặp khó khăn.
Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận đơn của anh D xin thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn là phù hợp. Do đó Tòa án cấp phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận đơn kháng cáo.
[3] Về án phí: Do kháng cáo của anh D không được chấp nhận nên anh phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 58; 81; 82; 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình: Không chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Xuân D, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 234/2019/HNGĐ-ST ngày 04/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa.
Tiếp tục giao cháu Nguyễn Xuân H, sinh ngày 13/5/2013 cho chị Lê Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh D có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung không ai được cản trở Án phí dân sự phúc thẩm: Áp dụng khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án: Anh D phải nộp 300.000đ, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số AA/2018/0005804 ngày 16/9/2019 của Chi cục THADS huyện Hoằng Hóa.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Án xử công khai phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 58/2019/HNGĐ-PT ngày 04/11/2019 về tranh chấp yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Số hiệu: | 58/2019/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 04/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về