Bản án 58/2017/HS-ST ngày 15/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN CHÂU,  TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 58/2017/HS-ST NGÀY 15/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 50/2017/HS-ST, ngày 02 tháng11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 217/2017/HSST-QĐ ngày 01 tháng 12 năm 2017, đối với bị cáo:

Huỳnh Bảo T - sinh năm: 1994; nơi cư trú: Khóm C, phường H, thị xã TC, tỉnh An Giang; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Đạo Phật; trình độ học vấn: Lớp 3/12; nghề nghiệp: Không; con ông Huỳnh Tấn Đ và bà Đặng Thị D; tiền sự: Ngày 05/7/2017, bị Ủy ban nhân dân phường H, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại phường, về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn 03 tháng, chưa chấp hành xong; tiền án: Ngày 07/01/2016, bị Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu xử phạt 01 năm 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, đến ngày 28/01/2017, chấp hành xong; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 11/9/2017 (Có mặt).

Người bị hại: Chị Nguyễn Thị Kiều O – sinh năm 1978 và anh Nguyễn Văn L – sinh năm 1977; cùng cư trú tại khóm H, phương  S, thị xã TC, tỉnh An Giang. (Vắng mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Bà Lê Thị Ph – sinh năm 1963; cư trú tại khóm 1, phường S, thị xã TC,tỉnh An Giang. (có mặt).

- Bà Bùi Thị Ch – sinh năm 1951; trú tại khóm C, phường H, thị xã TC, tỉnhAn Giang. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tạiphiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 10/9/2017, Huỳnh  Bảo T nảy sinh ý định đi tìm tài sản lấy trộm, nên T hỏi mượn xe đạp của bà Bùi Thị Ch (bà nội của T), rồi điều khiển xe đi đến khu vực khóm  2, phường S, thị xã TC, tỉnh An giang, T thấy xe ôtô khách, biển số 67L - 9233 của chị Nguyễn Thị Kiều O đang đỗ ở lề đường, trên xe không có ai và xung quanh không có người trông coi. T đi đến phía sau xe ôtô, thấy cửa phía sau xe không khóa, T dùng tay mở nắp cửa ra, thấy có 02 bình ắc quy nhãn hiệu GS - N100E 12V 100Ah, màu xanh - trắng, T dùng tay bẽ sợi dây điện nối giữa 02 bình ắc quy với nguồn điện của xe, rồi T lấy 01 bình ắc quy để lên yên xe đạp, dùng tấm nhựa màu xanh bọc lại, đồng thời lấy bình ắc quy còn lại giấu phía dưới sàn xe ôtô. Sau đó, T  điều khiển xe chở bình ắc quy vừa lấy trộm được, đến vựa phế liệu N, bán cho bà Lê Thị Ph được 485.000 đồng, sau đó T đi về nhà trả cho bà Ch 100.000 đồng, số tiền còn lại T mua ma túy sử dụng và tiêu xài hết. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, T điều khiển xe đạp đến chỗ xe ôtô của chị O đang đỗ, tiếp tục lấy bình ắc quy còn lại chở về nhà. Khi T đi đến khu vực khóm D, phường T, thị xã TC, thì bị bị lực lượng Công an phường T đi tuần tra phát hiện. Ngày 11/9/2017, T bị Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thị xã TC, khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản”.

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm: 02 cái bình ắc quy, nhãn hiệu GS -N100E 12V 100Ah, màu xanh, trắng, đã qua sử dụng.

Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 38 và số 40 ngày 14/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã TC, kết luận:02 cái bình ắc quy, nhãn hiệu GS - N100E 12V 100Ah, màu xanh, trắng, đã qua sử dụng, trị giá là (2 x 1.600.000 đồng/cái) = 3.200.000 đồng.

Trong quá trình điều tra  và tại phiên tòa bị hại, người có quyền lợi liên quan và nhân chứng bày như sau:

Chị Nguyễn Thị Kiều O và anh Nguyễn Văn L, cùng cho biết: Anh chị mua02 cái bình ắc quy, nhãn hiệu GS - N100E 12V 100Ah, màu xanh - trắng, tại thành phố Hồ Chí Minh, cách nay hơn 01 năm với giá 6.500.000 đồng. Sau khi mua về anh L gắn 02 bình ắc quy vào xe ôtô khách, biển số 67L – 9233 để sử dụng. Ngày 10/9/2017, anh chị phát hiện bị mất 02 bình ắc quy nên đến trình báo Công anphường  S, thị xã TC, tỉnh An Giang. Trong quá trình điều tra chị O và anh L đã nhận lại 02 bình ắc quy bị mất trộm, nên không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Bà Bùi Thị Ch (bà nội của T), cho biết: Khoảng 12 giờ ngày 10/9/2017, T mượn xe đạp của bà và nói là đi chơi. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, T về nhà trả cho bà 100.000 đồng đã mượn trước đó, rồi bỏ đi đâu không rõ. Sau đó, bà nghe nói số tiền T trả cho bà, là do T lấy trộm tài sản của người khác đem bán mà có, nên bà đã giao nộp lại số tiền trên cho Công an thị xã TC.

Bà Lê Thị P cho biết: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 10/9/2017, bà đang ở nơi thu mua phế liệu N, thì Huỳnh Bảo T điều khiển xe đạp chở theo 01 bình ắc quy đến bán. Bà nhìn bình ắc quy rồi đồng ý mua với giá 22.000 đồng/kg và đưa cho T 485.000 đồng. Khi mua, bà không biết đây là tài sản do T lấy trộm mà có. Bà đã được cơ quan điều tra cho nhận lại 100.000đồng, số tiền còn lại 385.000đồng bà không yêu cầu T phải trả lại cho bà.

Các anh Lê Hoàng V, Nguyễn Tân X, Đoàn Quang Kh, Huỳnh Văn L cùng trình bày: Khoảng 20 giờ ngày 10/9/2017, các  anh đi tuần tra trên địa bàn phường T. Khi đi đến khu vực khóm D, phường T thì phát hiện Huỳnh Bảo T đang điều khiển xe đạp, chở theo phía sau 01 bình ắc quy màu xanh - trắng, nghi vấn bình ắc quy trên là do T lấy trộm, nên mời T về Công an phường Long Thạnh làm việc. Tại đây, T thừa nhận đã lấy trộm bình ắc quy trên tại phường S.

Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân châu, tỉnh An Giang, truy tố Huỳnh Bảo T tại cáo trạng số 51/VKS-HS ngày 31/10/2017, về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa có ý kiến giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Huỳnh Bảo T về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 138; Điều 33; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Huỳnh Bảo T mức án từ  02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Đối với hành vi của bà Lê Thị Ph mua bình ắc quy do Tiến lấy trộm mà có, nhưng do khi mua bà Ph không biết bình ắc quy do Tiến lấy trộm, nên Cơ quan điều tra không xử lý hình sự  đối với bà Ph.

Bị cáo Huỳnh Bảo T có ý kiến thống nhất với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát và ý kiến luận tội của kiểm sát viên, đồng thời xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Tân Châu, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Châu, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án là đều hợp pháp.

Tại phiên tòa bị cáo Huỳnh Bảo T khai nhận do không có tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng nên vào lúc 12 giờ 30 ngày 10/9/2017, bị cáo T đi đến khu vực khóm  2, phường S, thị xã TC, tỉnh An giang, rồi lén lút lấy trộm 02 cái bình ắc quy, nhãn hiệu GS - N100E 12V 100Ah, trong xe ôtô khách, biển số 67L - 9233 của chị Nguyễn Thị Kiều O như nội dung vụ án đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo Huỳnh Bảo T hoàn toàn phù hợp lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hành vi lấy trộm 02 cái bình ắc quy trị giá 3.200.000 đồng của chị Nguyễn Thị Kiều O và anh Nguyễn Văn L, mà bị cáo Huỳnh Bảo T thực hiện là hành vi nguy hiểm cho xã hội và có đủ yếu tố cấu thành tội phạm “Trộm cắp tài sản” quy định trong Bộ luật hình sự. Do đó HĐXX kết luận bị cáo Huỳnh Bảo Ti đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 điều 138 Bộ luật hình sự được sửa đổi bổ sung năm 2009.

Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Tài sản của công dân là do công sức của họ tạo ra hoặc do nguồn thu nhập hợp pháp khác mà họ có được, nên tài sản riêng của công dân luôn được mọi người tôn trọng và được pháp luật bảo vệ, những hành vi trái pháp luật xâm phạm đến tài sản riêng công dân thì sẽ bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Huỳnh Bảo T đang đứng trước Tòa hôm nay là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận biết được việc “Trộm cắp tài sản” là vi phạm pháp luật, nhưng do bản tính tham lam, chay lười lao động, nghiện ngập ma túy và xem thường pháp luật nên đã thúc đẩy bị cáo dấn thân vào việc phạm tội “Trộm cắp tài sản”, đây cũng là nguyên nhân và là động cơ phạm tội của bị cáo. Hành vi phạm tội của bị cáo T đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của chị Nguyễn Thị Kiều O và anh Nguyễn Văn L, đồng thời còn làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội ở địa phương, bị cáo T đang có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng bị cáo không chịu tu sửa bản thân để trở thành người công dân tốt mà lại tiếp tục phạm tội, nên bị cáo T phạm tội có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Do đó cần phải xử phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, để răn đe, giáo dục bị cáo và để phòng ngừa chung loại tội phạm này ở địa phương.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Huỳnh Bảo T có thái độ thật thà khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Do đóHĐXX có xem xét giảm nhẹ một phần về trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Qua xem xét các tình tiết nêu trên HĐXX thấy rằng, cần phải xử phạt tù bị cáo T ở mức cao trong khung hình phạt của điều luật bị cáo bị xét xử, là phù hợp với pháp luật và cũng tương xứng với việc phạm tội của bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra chị Nguyễn Thị Kiều O và anh Nguyễn Văn L đã nhận lại 02 bình ắc quy bị mất trộm và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm; bà Bùi Thị Ch đã nhận lại xe đạp và bà Lê Thị Ph không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 385.000đồng nên HĐXX không đặt ra giải quyết.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

Về Biện pháp tư pháp khác: Vật chứng thu giữ trong vụ án cơ quan Điều tra đã xử lý xong nên HĐXX không đặt ra giải quyết.

Về án phí: Bị cáo Huỳnh Bảo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quyđịnh tại Điều 99 Bộ luật tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án 4 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Bảo T phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 138; Điều 33; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Huỳnh Bảo T mức án 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11 tháng 9 năm 2017.

- Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng Hình sự và Nghị quyết về án phí, lệ phí Tòa án số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Huỳnh Bảo T phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặn bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

310
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2017/HS-ST ngày 15/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:58/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Châu - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về