Bản án 57/2021/HS-ST ngày 02/02/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 57/2021/HS-ST NGÀY 02/02/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 798/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 242/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo:

Bùi Thị Yến N; sinh năm: 1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: TC100/9 N, Phường NTB, Quận M, Thành phố H; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Văn H (chết) và bà Bùi Hồng V (chết); chồng: Trần Hữu D, sinh năm 1988 (không đăng ký kết hôn), con: Trần Ngọc D, sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không có; nhân thân: ngày 11/6/2018, bị Trưởng Công an Phường Nguyễn Thái Bình, Quận 1 xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản (Quyết định số 0031830/QĐ-XPVPHC); bị bắt, tạm giam: ngày 28/8/2020; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Emely P., sinh năm: 1995; quốc tịch: Hà Lan; nơi lưu trú tại Việt Nam: 384/7 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Tạ Vĩnh P, sinh năm: 1980; địa chỉ: 442 đường N, Phường B, Quận M, Thành phố H; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 03 giờ ngày 30/11/2019, bị cáo đi bộ từ hẻm 62 đường Lý Chính Thắng, Phường 8, Quận 3 tìm những nhà có tài sản sơ hở để chiếm đoạt tài sản. Khi đi ngang nhà số 384/7 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3 thì thấy nhà không khóa cổng và trong sân có 02 xe gắn máy không người trông coi, nên mở cổng đi vào và chiếm đoạt chiếc xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda Vision, biển số 66G1-244.13 của chị Emely P.. Sau đó, bị cáo đẩy xe ra đường Phan Đình Phùng thuê một người chạy xe ôm (chưa rõ lai lịch) đẩy xe đến Cầu Bông trên đường Đinh Tiên Hoàng, Quận 1. Bị cáo lại tiếp tục đẩy bộ chiếc xe gắn máy đến trước nhà số 207 đường Đinh Tiên Hoàng, phường Tân Định, Quận 1 và bán cho đối tượng tên Tí (chưa rõ lai lịch) với giá 3.500.000 đồng, Tí đưa trước cho bị cáo 500.000 đồng, còn 3.000.000 đồng Tí hẹn đi lấy tiền rồi quay lại nhưng Tí không quay trở lại trả tiền cho bị cáo.

Ngày 27/8/2020, ông Tạ Vĩnh P xem lại camera và phát hiện bị cáo chiếm đoạt tài sản nên đến Công an Phường 8, Quận 3 trình báo. Ngày 28/8/2020, bị cáo bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Tại Cơ quan điều tra, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi chiếm đoạt chiếc xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda Vision, biển số 66G1-244.13 của chị Emely P. như trên. Theo kết luận định giá tài sản, thì chiếc mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda Vision, biển số 66G1-244.13 trị giá 17.987.000 đồng.

Qua xác minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định được chiếc xe gắn máy trên do chị Đặng Thị Thu Thảo - địa chỉ: ấp Long Hậu, xã Lang Khánh A, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp; tạm trú số 19/45K1 ấp 3, xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh - đứng tên trên giấy đăng ký xe, nhưng hiện nay chị Thảo đi đâu không rõ nên chưa ghi nhận được lời khai của chị Thảo. Anh Nguyễn Khắc Phú khai mua xe gắn máy trên của một người đàn ông ở Quận 7 (không nhớ tên), sau đó bán xe cho chị Emely P. (chị Emely P. nhờ John Hoang Trong Vu đứng tên trên Hợp đổng mua bán xe). Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Bùi Thị Yến N về hành vi chiếm đoạt tài sản.

Bản Cáo trạng số 571/CT-VKS-P2 ngày 22 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Bùi Thị Yến N tội danh “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lời luận tội, giữ quan điểm như truy tố, nêu lên các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 12 tháng đến 18 tháng tù; đề nghị xử lý vật chứng, tài sản thu giữ theo quy định. Về trách nhiệm dân sự, bị hại đã được ông Tạ Vĩnh P hỗ trợ 12.000.000 đồng và không có yêu cầu bồi thường dân sự nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Ông Tạ Vĩnh P có đơn yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền ông đã hỗ trợ cho bị hại, nên đề nghị buộc bị cáo hoàn trả cho ông Tạ Vĩnh P số tiền 12.000.000 đồng.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng nêu, đồng ý bồi thường lại cho ông Tạ Vĩnh P số tiền 12.000.000 đồng và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo Bùi Thị Yến N tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở để xác định, vào khoảng 03 giờ ngày 30/11/2019, tại nhà số 384/7 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu, bị cáo đã lén lút chiếm đoạt chiếc mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda Vision, biển số 66G1-244.13 của chị Emely P.. Theo bản Kết luận định giá tài sản số 6373/KL-HĐĐGTS ngày 07/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong Tố tụng hình sự cấp Thành phố, thì chiếc xe này trị giá 17.987.000 đồng.

[3] Hành vi lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu, lén lút tiếp cận rồi chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị như nêu trên mà bị cáo thực hiện, đã đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo tội danh “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng quy định.

[4] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nên có lỗi cố ý trực tiếp; vì vậy, bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ là “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “thành khẩn khai báo”, “ăn năn hối cải”. Những tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

- 01 USB màu xanh lá hiệu Kingston, 2GB có 03 tập tin video ghi nhận hình ảnh bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt chiếc mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda Vision, biển số 66G1-244.13: đây là chứng cứ liên quan đến việc chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, nên đưa lưu vào hồ sơ vụ án.

- Bị hại đã được ông Tạ Vĩnh P hỗ trợ 12.000.000 đồng và không có yêu cầu bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét. Ông Tạ Vĩnh P có đơn yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền ông đã hỗ trợ cho bị hại; xét thấy, yêu cầu bồi thường này là có căn cứ và bị cáo cũng đồng ý bồi thường nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tuyên bố bị cáo Bùi Thị Yến N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Bùi Thị Yến N 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/8/2020.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Ghi nhận bị cáo Bùi Thị Yến N tự nguyện bồi thường cho ông Tạ Vĩnh P số tiền 12.000.000 đồng, việc bồi thường được thực hiện ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, nếu chậm thực hiện thì bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Đưa lưu vào hồ sơ vụ án: 01 USB màu xanh lá hiệu Kingston, 2GB có 03 tập tin ghi nhận hình ảnh bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt chiếc mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda Vision, biển số 66G1-244.13 (đã được lưu trữ trong hồ sơ vụ án).

4. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

các điểm a, f khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu là 200.000 đồng.

Án phí dân sự sơ thẩm bị cáo phải chịu là 600.000 đồng.

5. Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trưng hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2021/HS-ST ngày 02/02/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:57/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về