Bản án 57/2020/HNGĐ-ST ngày 19/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 57/2020/HNGĐ-ST NGÀY 19/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 19/8/2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 167/2020/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2020 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 62/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị V, sinh năm 2001; nơi cư trú: Thôn Hg, xã H, huyện LNg, tỉnh Bắc Giang (có mặt).

- Bị đơn: Anh Tăng Văn Ch, sinh năm 1997; nơi cư trú: Thôn C, xã Y, huyện L,tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).

NHẬN THẤY

* Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, bản tự khai và các lời khai tiếp theo chị Vũ Thị V là nguyên đơn trình bày: Chị và anh Tăng Văn Ch về Ch sống với nhau năm 2018, khi đó chị chưa đủ 18 tuổi, nên không có đăng ký kết hôn. Trước khi cưới chị và anh Ch có được tự do tìm hiểu. Sau khi cưới, chị và anh Ch về ở với nhau ngày và đã có một con Ch. Khi chị đủ 18 tuổi, chị và anh Ch tự nguyện đi đăng ký kết hôn ngày 28/10/2019 tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện L.

Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do hai vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên bất đồng quan điểm trong công việc cũng như trong cuộc sống, dẫn đến hai bên thường xảy ra cãi nhau. Sự việc diễn ra thường xuyên, hai bên gia đình đều biết và đã khuyên giải nhiều lần, nhưng cả chị và anh Ch vẫn không thống nhất được quan điểm sống. Đến tháng 2-2020 mâu thuẫn vợ chồng lại xảy ra, nên chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở. Nay xác định tình cảm không còn, nên chị đề nghị được Tòa án cho ly hôn.

- Về con Ch: Chị và anh Ch có 1 con Ch là Tăng Tuấn K, sinh ngày 22/10/2018, hiện nay con Ch đang ở cùng anh Ch. Ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con Ch. Hiện chị đang làm việc tại Công ty, mức lương trung bình là 8 triệu đồng/tháng, đủ điều kiện nuôi con.

Về cấp dưỡng nuôi con:Chị không yêu cầu giải quyết.

- Về tài sản, công nợ, ruộng canh tác: Chị không yêu cầu giải quyết.

* Bị đơn anh Tăng Văn Ch trình bày tại bản tự khai và biên bản hòa giải: Anh xác định vẫn còn tình cảm với chị V, nên anh không đồng ý ly hôn.

Về con Ch: Anh và chị V có một con Ch như chị V trình bày là đúng. Hiện con Ch đang ở với anh. Nếu ly hôn anh có nguyện vọng được nuôi con Ch.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh không yêu cầu giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay chị V không rút đơn khởi kiện. Các đương sự không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án.

- Nguyên đơn chị V trình bày: Mâu thuẫn vợ chồng là do anh Ch hay mắng chửi vợ con, kinh tế gia đình khó khăn; mâu thuẫn giữa mẹ chồng và con dâu, anh Ch lại không có quan điểm rõ ràng, chỉ nghe mẹ, nên chị không chịu được nữa, nên đã phải về nhà mẹ đẻ ở. Chị xác định không còn tình cảm với anh Ch, nên đề nghị Tòa án cho được ly hôn.

Về con Ch: Chị và anh Ch có một con Ch là Tăng Tuấn K, sinh ngày 22/10/2018, nếu ly hôn chị xin nuôi con, không yêu cầu anh Ch phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Ch vắng mặt tại phiên tòa.

* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Ch vắng mặt tại phiên tòa không có lý do là không chấp hành quyết định của Tòa án. Viện kiểm sát không có ý kiến gì.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhận và gia đình:

Điều 147, 227, 228, 271, 272 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự (viết tắt là BLTTDS):

Điều 24, 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị V được ly hôn anh Tăng Văn Ch.

 - Về con Ch: Giao cho chị Nguyễn Thị V trực tiếp nuôi con Ch là Tăng Tuân K, sinh ngày 22/10/2018.

Về cấp dưỡng nuôi: Không đặt ra xem xét giải quyết. Về tài sản: Không đặt ra xem xét:

- Về án phí: Chị V phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

- Các đương sự có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.

XÉT THẤY

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam. Sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ pháp luật:Chị Nguyễn Thị V có đơn xin ly hôn với anh Tăng Văn Ch nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28của BLTTDS xác định quan hệ pháp luật là "Tranh chấp hôn nhân và gia đình".

[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án:Anh Tăng Văn Ch là bị đơn có địa chỉ cư trú tại huyện L, tỉnh Bắc Giang nên căn cứ vào khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang. Do đó TAND huyện L, tỉnh Bắc Giang thụ lý vụ án là đúng qui định.

[1.3]. Về sự vắng mặt của bị đơn: Anh Tăng Văn Ch đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần mà vẫn vắng mặt. Do đó Tòa án xét xử vắng mặt anh Ch theo qui định tại khoản 3 Điều 228 của BLTTDS.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị V và anh Tăng Văn Ch về Ch sống với nhau năm 2018, hôn lễ được tổ chức trên nghi lễ phong tục tập quán, khi đó chị V chưa đử 18 tuổi, nên không đăng ký kết hôn. Trong quá trình Ch sống, chị V và anh Ch đã có một con Ch là Tăng Tuấn K, sinh ngày 22/10/2018. Đến ngày 28/10/2019 chị V và anh Ch tự nguyên đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện L, tỉnh Bắc Giang,nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do chị V và anh Ch có nhiều điểm không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống,từ đó vợ chồng xảy cãi nhau. Tháng 2-2020 mâu thuẫn vợ chồng lại xảy ra, chị V đã về nhà bố mẹ đẻ ở và đã sống ly thân, hai người không con quan hệ vợ chồng với nhau nữa. Tòa án đã tiến hành hòa giải đoàn tụ nhiều lần, nhưng chị V giữ nguyên ý kiến xác định tình cảm vợ chồng không còn và xin ly hôn, tại phiên toà một lần nữa chị V giữ quan điểm xin ly hôn. Chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không còn tình cảm với nhau, không có sự quan tâm chăm sóc nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống Ch không thể kéo dài. Nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình,cho chị Nguyễn Thị V được ly hôn anh Tăng Văn Ch [2.2]. Về con Ch: Các đương sự trình bày có một con Ch là Tăng Tuấn K, sinh ngày 22/10/2018. Hiện nay con Ch đang ở cùng anh Ch. Ly hôn, anh Ch và chị V đều có nguyện vọng được nuôi con Ch.

Xét thấy:Việc nuôi dưỡng và chăm sóc con Ch là quyền và nghĩa vụ của cả bố và mẹ, các bên có nguyện vọng nuôi con đều là nguyện vọng chính đáng. Tuy nhiên cháu Tăng Tuân K đến nay chưa đủ 36 tháng tuổi. Tại khoản 3 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình qui định:

“3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.

Do đó cần giao cho anh V nuôi con là phù hợp với qui định trên.

Sau khi ly hôn anh Ch được quyền thăm nom con Ch, không ai được cản trở anh Ch thực hiện quyền này. Tuy nhiên, người không trực tiếp nuôi con không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với các điều 58, 82 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2.3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Do các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì lợi ích của con Ch, Tòa án có thể thụ lý giải quyết vụ án thay đổi người trực tiếp nuôi con Ch hoặc vụ án yêu cầu cấp dưỡng nuôi con Ch nếu sau này các đương sự có đơn yêu cầu và theo quy định của pháp luật.

[2.4]. Về tài sản Ch: Các đương sự không yêu cầu Toà án giải quyết, nên không đặt ra xem xét.

Về án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình: Chị V phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình; Các Điều: 28, 35, 39, 144, khoản 4 Điều 147, Điều 150, khoản 3 Điều 228,  271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị V được ly hôn anh Tăng Văn Ch.

 2. Về con Ch: Giao cho chị Nguyễn Thị V trực tiếp nuôi con Ch là Tăng Tuân K, sinh ngày 22/10/2018.

Anh Ch có quyền đi lại thăm nom con Ch, không ai được cản trở anh Ch thực hiện quyền này. Tuy nhiên, người không trực tiếp nuôi con không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người trực tiếp nuôi dưỡng.

 3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị V phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng chị V đã nộp tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số: AA/2017/0004715 ngày 29/4/2020của Chi cục thi hành án dân sự huyện L. Xác nhận chị V đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Báo cho đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Báo cho đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án, hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo qui định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2020/HNGĐ-ST ngày 19/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:57/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về