Bản án 57/2019/HSST ngày 29/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 57/2019/HSST NGÀY 29/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 52/2018/HSST, ngày 03 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2018/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Phan Văn T, sinh ngày 09 tháng 9 năm 1990 tại xã L, huyện Y, tỉnh N; nơi cư trú: xóm 1, xã L, huyện Y, tỉnh N; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn H và bà Nguyễn Thị TU; vợ con: chưa có; Tiền án: không, tiền sự: ngày 04/8/2018 bị Công an huyện Yên Thành xử phạt vi phạm hành chính 2.000.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”; tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/3/2019 cho đến nay, có mặt.

2. Lê Công Th, sinh ngày 01 tháng 8 năm 1995 tại xã L, huyện Y, tỉnh N; nơi cư trú: xóm 6, xã L, huyện Y, tỉnh N; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Công Vinh và bà Nguyễn Thị TU; vợ con: chưa có; Tiền án, tiền sự: tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/3/2019 cho đến nay, có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Nguyễn Thị TU, sinh năm 1970

Nơi cư trú: xóm 6, xã L, huyện Y, tỉnh N.(Có mặt)

+ Bà Nguyễn Thị TO, sinh năm 1960

Nơi cư trú: xóm 1, xã L, huyện Y, tỉnh N.(Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 09 giờ 45 phút ngày 20/3/2019 Lê Công Th mượn điện thoại của mẹ đẻ là chị Nguyễn Thị TU nói là để gọi điện cho bạn. Chị Tuyết đồng ý. Thước dùng chiếc điện thoại này gọi điện cho Phan Văn T hỏi Tài có ma túy không bán cho 1 ít, tài đáp “Có, xuống mà lấy”. Thước đi đến ki ốt mà Tài đang thuê để bán hàng tại xóm Cầu Thông, xã Liên Thành để gặp Tài. Tại đây Thước nói “bán cho em 200.000 đồng hê rô in”. Tài nhận tiền rồi đi vào trong ốt lấy đưa cho Thước 1 gói nhỏ bên ngoài được bọc 1 lớp giấy, bên trong có chứa 1 ít chất bột màu trắng. Sau khi mua được ma túy Thước bắt xe ôm lên ngã Tư xã Công Thành mua xi lanh để sử dụng thì bị Tổ công tác Công an huyện Yên Thành phát hiện bắt quả tang thu giữ trong túi quần của Thước 1 gói nhỏ bên trong có chứa chất bột màu trắng (nghi là hê rô in). Tiến hành niêm phong, sau đó xác định khối lượng là 0,125 gam. Qua đấu tranh Thước khai đây là hê rô in mới mua của Phan Văn T. Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra ra lệnh khám xét nơi ở của Tài tại ki ốt bán hàng, thu tại góc xép phòng ngủ 1 gói ni lông màu trắng bên trong có chứa 3 gói nhỏ, mỗi gói có chứa chất bột màu trắng (nghi là hê rô in); thu trên nóc tủ bên phải phòng ngủ của Tài 1 gói nhỏ bên trong có chứa chất bột màu trắng (nghi là hê rô in); thu trên giường phòng ngủ của Tài số tiền 5.700.000 đồng. Toàn bộ chất một màu trắng thu giữ của Tài có tổng khối lượng là 0,255 gam.

Tại cơ quan điều tra Tài thừa nhận toàn bộ chất bột thu giữ tại nơi ở và chất bột đã bán cho Thước là do Tài mua lại của một người đàn ông đi xe lai không rõ tên tuổi ở ngã tư xã Công Thành vào buổi sáng cùng ngày đem về chia nhỏ với mục đích bán lại để kiếm lời.

Tại kết luận giám định số 505 ngày 25/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nghệ An kết luận: mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lê Công Th gửi tới giám định là Hêrôin; 04 mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Phan Văn T gửi tới giám định là Hêrôin.

Tại bản cáo trạng số 63/VKS-HS ngày 02/5/2019 của VKSND huyện Yên Thành đã truy tố Phan Văn T về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" quy định tại khoản 1 điều 251 BLHS; truy tố Lê Công Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy “quy đinh tại điểm c khoản 1 điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các quy định của pháp luật xử phạt bị cáo Phan Văn T từ 30 đến 36 tháng tù; bị cáo Lê Công Th từ 12 đến 13 tháng tù. Các bị cáo không có tranh luận gì, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ buộc tội: Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, điều tra viên; Viện kiểm sát, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên toà, bị cáo Phan Văn T và Lê Công Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp lời khai giữa T và Th, phù hợp các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ kết luận bị cáo Tài đã có hành vi mua ma túy của người khác đem về chia nhỏ và bán lại cho các đối tượng nghiện ma túy để hưởng lợi (cụ thể đã bán cho Thước 200.000 đồng). Đối với Lê Công Th là người nghiện ma túy, đã mua của Tài 200.000 đồng ma túy với mục đích để sử dụng cho bản thân. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành truy tố bị cáo Phan Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 điều 251 BLHS; truy tố bị cáo Lê Công Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy đinh tại điểm c khoản 1 điều 249 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây nguy hại cho sức khỏe, tính mạng con người và là hiểm họa cho toàn xã hội. Vì thế, cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng phòng ngừa tội phạm.

[2] Về tình tiết tăng nặng: không

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Cả hai bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, song nhất thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp quy định của pháp luật.

[4] Về hình phạt bổ sung: Lẽ ra phải áp dụng khoản 5 điều 249 và khoản 5 điều 251 BLHS phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với các bị cáo, nhưng xét các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, bản thân cũng là người nghiện ma túy, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, nghĩ nên miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Vật chứng là Hê rô in thu giữ của T và Th, xét không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Note8 thu giữ của Tài có liên quan đến việc mua bán ma túy nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước; đối với chiếc điện thoại di động Nokia màu đen thu giữ của Thước xét không liên quan đến việc mua bán ma túy nên cần tuyên trả cho Thước. Đối với chiếc điện thoại thu giữ của bà Nguyễn Thị TU do bà Tu không biết Thước dùng để giao dịch mua ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà Tu là đúng quy định. Đối với số tiền 5.700.000 đồng thu giữ của Phan Văn T xác định trong số này có 200.000 đồng là tiền có liên quan đến mua bán ma túy, nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước. Số tiền còn lại 5.500.000 đồng được xác định không liên quan đến việc mua bán ma túy nên Cơ quan điều tra đã giao trả lại là đúng quy định.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: khoản 1 điều 251; điểm s khoản 1 điều 51 BLHS.

[1] Xử phạt: Phan Văn T 30 (ba mươi) tháng tù, về tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

Căn cứ: khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự.

[2] Xử phạt: Lê Công Th 12(mười hai) tháng tù, về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của mỗi bị cáo được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam: 20/3/2019.

[3] Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1, điều 46 BLHS; điểm a, c khoản 2 điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư được niêm phong theo quy định, bên trong có chứa 0,025 gam Hêrôin thu giữ của Lê Công Th; 01 phong bì thư được niêm phong theo quy định, bên trong có chứa 0,035 gam Hêrôin thu giữ của Phan Văn T.

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 200.000 đồng thu giữ của Phan Văn T

+ Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu SAM SUNG NOTE8 phía sau màu trắng, phía trước màu đen thu giữ của Phan Văn T.

+ Tuyên trả lại cho Lê Công Th 01 điện thoại di động hiệu NOKIA màu đen.

(Tang vật đang do Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Thành quản lý theo phiếu nhập kho số NK 054 ngày 03/5/2019). Đối số tiền 200.000 đồng hiện đang tạm nộp vào tài khoản của Chi cục thi hành án tại Kho bạc nhà nước huyện Yên Thành vào ngày 23/4/2019

[4] Án phí: Căn cứ khoản 2 điều 136 BLTTHS; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc Phan Văn T và Lê Công Th mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án lên Toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2019/HSST ngày 29/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:57/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về