Bản án 57/2019/HS-ST ngày 22/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 57/2019/HS-ST NGÀY 22/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong các ngày 19 và 22 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 52/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 55/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Trịnh Nhật Gi (Được), sinh năm 1990 tại tỉnh Bến Tre; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: đường ĐHM, Khu phố 1, Phường 5, thành phố BT, tỉnh Bến Tre; Tạm trú: Khu phố 3, Phường 7, thành phố BT, tỉnh Bến Tre; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ học vấn: 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; con bà Trịnh Thị Th (đã chết) và không rõ tên cha; Vợ: không; con: có 01 người con sinh năm 2015; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 02/01/2019, bị Công an tỉnh Bến Tre ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (Quyết định số 03/QĐ-XPHC); Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cứ trú từ ngày 27/5/2019 đến nay. (Có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Đỗ Thị Kim L, sinh năm 1984. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Khu phố MT, Phường 7, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

- Võ Văn L, sinh năm 1993. Vắng mặt.

Nơi cư trú: ấp BT, xã BP, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

* Người làm chứng:

- Thạch Bích Th, sinh năm 1997.

Hộ khẩu thường trú: ấp BT, xã BP, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 08/01/2019, tại khu vực cầu sắt thuộc phường 7, thành phố BT, Gi mua 01 túi ma túy của Võ Văn L (Đen) với giá 200.000 đồng và cất vào túi quần jean đang mặc. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, Gi về phòng trọ số 02, nhà trọ Khu phố 3, Phường 7, thành phố BT lấy ma túy đã mua để ra nền gạch chuẩn bị sử dụng cùng với Đỗ Thị Kim L thì bị Công an kiểm tra hành chính phát hiện nên lập biên bản phạm pháp quả tang và thu giữ tang vật gồm:

- 01 túi nylon màu trắng, hàn kín, bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy (sau khi thu giữ được niêm phong trong phong bì ghi ngày 08/01/2019 có chữ ký, ghi tên Trịnh Nhật Gi, Nguyễn Hoàng D, Huỳnh Viết H và hình dấu tròn màu đỏ của Công an phường 7, thành phố Bến Tre).

- 01 bình thủy tinh trên nắp bình có gắn 01 ống hút nhựa và 01 nỏ thủy tinh.

Theo bản Kết luận giám định số 15/2019/GĐMT ngày 08/02/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận: tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, khối lượng: 0,1054 gam.

Tại bản cáo trạng số 53/CT-VKSTPBT ngày 01 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã truy tố bị cáo Gi về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên có bổ sung nội dung cáo trạng đã truy tố đối với phần phần tiền sự của bị cáo và đề nghị:

- Về hình phạt chính: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Gi từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Về hình phạt bổ sung: không áp dụng;

- Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy phong bì số 15/2019 có chữ ký ghi tên Phan Nghĩa Th, Phan Trung Tr và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre bên trong chứa mẫu vật còn lại sau giám định; 01 bình thủy tinh trên nắp bình có gắn 01 ống hút nhựa và 01 nỏ thủy tinh.

Bị cáo Trịnh Nhật Gi khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre đã truy tố. Bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt, không khiếu nại gì đối với các hành vi và quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Bến Tre, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và người làm chứng đã được Tòa án tống đạt hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không rõ lý do. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, họ đã có lời khai đầy đủ, rõ ràng, sự vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt họ.

[2] Bị cáo Gi có lời khai tại phiên tòa phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang ngày 08/01/2019, phù hợp với kết quả giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra, có đủ cơ sở xác định: Bị cáo Gi đã có hành vi cất giấu trái phép 0,1054 gam loại Methamphetamine để sử dụng.

[3] Bị cáo Gi là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận biết việc sử dụng ma túy là bị pháp luật cấm nhưng bị cáo vẫn mua và cất giấu ma túy để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây tác động xấu đến tình hình an ninh trật tự, làm phát sinh nguy cơ xảy ra các tội phạm và tệ nạn khác, gây tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân.

[5] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân, bị cáo Gi không có tiền án, có 01 tiền sự bị xử phạt về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định số 03/QĐ-XPHC ngày 02/01/2019 của Công an tỉnh Bến Tre.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo Gi được hưởng là thành khẩn khai báo và đang nuôi con còn nhỏ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Bị cáo Gi không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi bị cáo gây ra, xét thấy việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân lương thiện, có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung.

[6] Hình phạt bổ sung: không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Lời phát biểu luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, điều luật áp dụng, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo Gi là phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Đối với phong bì số 15/2019 có chữ ký ghi tên Phan Nghĩa Th, Phan Trung Tr và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre bên trong chứa mẫu vật còn lại sau giám định là chất Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 bình thủy tinh trên nắp bình có gắn 01 ống hút nhựa và 01 nỏ thủy tinh là công cụ sử dụng ma túy nên tịch thu tiêu hủy

[9] Đối với Võ Văn L hiện vắng mặt tại địa phương, không rõ đi đâu nên Cơ quan cảnh sát điều tra chưa mời làm việc được, khi làm việc được sẽ xử lý sau.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Gi phải nộp theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trịnh Nhật Gi phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo: Trịnh Nhật Gi 01 (một) năm tù;

Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: phong bì số 15/2019 có chữ ký ghi tên Phan Nghĩa Th, Phan Trung Tr và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre bên trong chứa mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,0993 gam và 01 (một) bình thủy tinh trên nắp bình có gắn 01 (một) ống hút nhựa và 01 (một) nỏ thủy tinh.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/8/2019, hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến Tre đang quản lý).

3. Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Trịnh Nhật Gi phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo được kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2019/HS-ST ngày 22/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:57/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về