Bản án 57/2019/HS-ST ngày 20/12/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 57/2019/HS-ST NGÀY 20/12/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 52/2019/HSST ngày 05 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1432/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Văn Đ, sinh ngày 23 tháng 4 năm 1994, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn C, xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T và con bà Bùi Thị Đ; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Quyết định số 09/QĐ-XPHC ngày 17 tháng 02 năm 2017 của Ủy ban nhân dân xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng phạt Trần Văn Đ 1.000.000đ (một triệu đồng) về hành vi trộm cắp tài sản (đã được xóa); bị cáo Trần Văn Đ hiện tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Bà Đỗ Thị C, sinh năm 1965 và chị Ninh Thị B, sinh năm 1993; đều trú quán: Thôn Đ, xã Q, huyện An, thành phố Hải Phòng, vắng mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Chiều ngày 07 tháng 9 năm 2019, Trần Văn Đ đi bộ trên đoạn đường 360 thuộc thôn Đ, xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng. Khi đi qua nhà chị Ninh Thị B, thấy đóng cửa nên Đ nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Đ trèo qua cổng đi vào gian phòng ngủ thì thấy bà Đỗ Thị C (mẹ chị B) nằm ngủ dưới đất còn chị B đang ôm con nhỏ ngủ trên giường, Đ quan sát thấy chiếc điện thoại LG màu xanh để cạnh bà C. Đ dùng tay phải lấy chiếc điện thoại di động LG màu xanh để cạnh bà C rồi giắt vào cạp quần phía trước bụng. Quan sát tiếp thấy trên giường nơi chị B đang ngủ có chiếc điện thoại OPPO F7 màu đỏ đang sạc để trên giường, tay phải Đ cầm chiếc điện thoại, tay trái Đ rút chân sạc chiếc điện thoại thì bị mẹ con bà C phát hiện. Đ chạy ra khỏi phòng ngủ, vừa chạy vừa cất chiếc điện thoại OPPO F7 màu đỏ vào túi quần bên phải. Bà C đuổi theo Đ và nói "điện thoại đâu đưa đây". Đ rút chiếc điện thoại di động LG màu xanh đưa cho bà C rồi chạy về phía sau trèo tường chạy ra ngoài. Sau đó Đ đem chiếc điện thoại OPPO F7 màu đỏ vừa trộm cắp của chị B bán cho anh Trịnh Văn X ở khu H, thị trấn A, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng với giá 1.400.000đ. Ngay sau đó bà Đỗ Thị C và chị Ninh Thị B có đơn trình báo với Công an huyện A, thành phố Hải Phòng.

Tại kết luận định giá tài sản số 31/KL-ĐG ngày 20 tháng 9 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện A kết luận: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F7 màu đỏ trị giá 3.200.000đ. Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu LG màu xanh trị giá 700.000đ. Tổng giá trị của 02 chiếc điện thoại di động trên là 3.900.000đ (ba triệu chín trăm nghìn đồng).

Về vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện A đã trả lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F7 màu đỏ cho chị Ninh Thị B và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu LG màu xanh cho bà Đỗ Thị C.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên.

Bản Cáo trạng số 01/CT-VKS ngày 03 tháng 12 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng đã truy tố Trần Văn Đ về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Lão vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Văn Đ mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gia thử thách; về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự; về trách nhiệm dân sự: Người bị hại chị Ninh Thị Bình và bà Đỗ Thị Ca đã nhận lại tài sản và không đề nghị về phần dân sự đối với bị cáo nên không xem xét; bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Lão, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Lão thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người bị hại và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai của bị cáo Trần Văn Đ tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, bản kết luận định giá tài sản số 31/KLĐG ngày 20 tháng 9 năm 2019, cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa nên đủ cơ sở kết luận: Vào 15 giờ ngày 07 tháng 9 năm 2019, bị cáo Trần Văn Đ đã có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F7 màu đỏ của chị Ninh Thị B trị giá 3.200.000đ (ba triệu hai trăm nghìn đồng) và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu LG màu xanh của bà Đỗ Thị C trị giá 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng). Tổng trị giá tài sản Trần Văn Đ chiến đoạt là: 3.900.000đ (ba triệu chín trăm nghìn đồng). Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện An Lão kết luận bị cáo Trần Văn Đ đã phạm tội: "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ phù hợp pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo lần đầu phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình đã gây ra; bị cáo Trần Văn Đ tự nguyện trả lại số tiền 1.400.000đ (một triệu bốn trăm nghìn đồng) cho anh Trịnh Văn Xuân nên bị cáo Trần Văn Đ được hưởng 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định và không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về nhân thân bị cáo Trần Văn Đ có 01 tiền sự tại Quyết định số 09/QĐ-XPHC ngày 17 tháng 02 năm 2017 của Ủy ban nhân dân xã Quốc Tuấn, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng phạt Trần Văn Đ 1.000.000đ (một triệu đồng) về hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo Trần Văn Đ nộp phạt ngày 25 tháng 2 năm 2017. Tính đến nay đã hơn 02 năm nên tiền sự này đã được xóa.

[7] Căn cứ vào hành vi cụ thể của bị cáo Trần Văn Đ, tính chất của vụ án và các tình tiết nêu trên. Bị cáo chưa có tiền án tiền sự, lần đầu phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị không lớn và đã được thu hồi trả lại cho người bị hại, hiện bị cáo Trần Văn Đ đang tại ngoại, có lý lịch và nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự cho Trần Văn Đ chấp hành án có điều kiện như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng tại phiên tòa hôm nay cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo, đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa chung và thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

[8] Anh Trịnh Văn X là người mua chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F7 màu đỏ với giá 1.400.000đ nhưng không biết là tài sản do Trần Văn Đ trộm cắp mà có nên không truy cứu trách nhiệm hình sự. Bị cáo Trần Văn Đ đã trả lại cho anh Trịnh Văn Xuân số tiền 1.400.000đ nên anh Trịnh Văn Xuân không yêu cầu bị cáo Trần Văn Đ bồi thường thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại chị Ninh Thị B và bà Đỗ Thị C đã nhận lại tài sản bị mất và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Về án phí: Bị cáo Trần Văn Đ phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự;

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

Xử phạt: Trần Văn Đ 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản" nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (hai mươi tư) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể Quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Giao bị cáo Trần Văn Đ cho Ủy ban nhân dân xã Quang H, huyện A, thành phố Hải Phòng giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì Ủy ban nhân dân xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng có trách nhiệm thông báo cho Cơ quan Thi hành án hình sự cấp huyện thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

- Về án phí: Bị cáo Trần Văn Đ phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Văn Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại là bà Đỗ Thị C và chị Ninh Thị B được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2019/HS-ST ngày 20/12/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:57/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về