Bản án 57/2019/HS-ST ngày 15/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 57/2019/HS-ST NGÀY 15/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 58/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Đặng Văn T, sinh ngày 17 tháng 7 năm 1994. Nơi sinh và cư trú: Thôn K, xã T, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Đặng Văn P, sinh năm 1969 và bà La Thị N, sinh năm 1969; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Bản án số 27/2014/HSPT ngày 13/5/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xử phạt 02 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 năm về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/3/2019 đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Hứa Văn Đ, sinh năm 1977. Địa chỉ: Thôn A, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Nông Tuấn Đ, sinh năm 1991. Địa chỉ: Thôn P, xã D, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đng Văn T nghiện ma túy từ khoảng tháng 12 năm 2018. Qua nói chuyện với những đối tượng nghiện ma túy khác trên địa bàn, Đặng Văn T biết và tìm đến mua ma túy của một người phụ nữ tên L (khoảng 60 tuổi, cao khoảng 160 cm, da đen, tóc đen, nặng khoảng 60kg, chân thọt bên trái, không rõ địa chỉ cụ thể) ở khu vực đường B thuộc phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn về để sử dụng. Đặng Văn T được mua ma túy với bà L 04 lần nhưng không nhớ chính xác thời gian từng lần cụ thể, mỗi lần mua 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng và đã sử dụng hết. Khoảng 10 giờ ngày 05/3/2019, Đặng Văn T mượn xe máy HONDA BKS 12D1-234.70 của anh Hứa Văn Đ đi từ nhà T đến khu vực đường B thuộc phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn tìm và gặp L để mua 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng, sau đó Đặng Văn T cất giấu ma túy trong người và đi về. Khoảng 12 giờ cùng ngày, khi đi đến khu vực thôn P, xã D, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, Đặng Văn T đem ma túy ra sử dụng thì bị Tổ công tác Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn làm nhiệm vụ tại thôn P, xã D, huyện C, tỉnh Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy nhỏ bên trong đều chứa chất bột màu trắng; 01 (một) điện thoại Mobiistar mặt trước màu trắng mặt sau màu đen, số IMEI 352242026462202; 01 điện thoại Massgo mặt trước màu trắng mặt sau dán băng dính đen số IMEI351660076739396, 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA màu đỏ đen BKS 12D1-234.70.

Tại Bản kết luận giám định số: 112/KL-PC54 ngày 07/3/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: “...Chất bột màu trắng có trong 01 gói giấy bạc thu giữ khi bắt quả tang Đặng Văn T ngày 05/3/2019 là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,176 gam (đã trừ bì)”.

Tại Bản cáo trạng số 56/CT-VKS ngày 17/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Đặng Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đặng Văn T khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên và không khai báo bổ sung. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý tàng trữ 0,176 gam (đã trừ bì) ma túy Heroine để phục vụ nhu cầu sử dụng của bản thân. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Đặng Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; xử phạt bị cáo Đặng Văn T từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 0,147 gam ma túy Heroine còn lại sau khi giám định được đựng trong một phong bì thư đã niêm phong. Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar, mặt trước màu trắng, mặt sau màu đen, có số IMEI: 352242026462202 (khi máy bật nguồn), đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Massgo, mặt trước màu trắng, mặt sau dán băng dính đen, có số IMEI: 351660076739396 đã qua sử dụng do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Đặng Văn T không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, lời nói sau cùng bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt để được sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với kết luận giám định số 112/KL-PC45 ngày 07/3/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định bị cáo Đặng Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,176 gam ma túy Heroine nhằm mục đích để sử dụng. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Đặng Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh tệ nạn xã hội khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện để phục vụ nhu cầu sử dụng của bản thân. Hiện nay việc đấu tranh phòng, chống ma túy là nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội, do đó hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo Đặng Văn T cần phải được xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo Đặng Văn T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo các điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về nhân thân: Tại Bản án số 27/2014/HSPT ngày 13/5/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo Đặng Văn T 02 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 năm về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.

[6] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ mới đảm bảo tính nghiêm minh, răn đe đối với bị cáo cũng như phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập và tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo phù hợp với các chứng cứ khác và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên là hợp pháp.

[10] Đối với người phụ nữ tên L bán ma túy cho bị cáo tại khu vực đường B thuộc phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, xác định không có người phụ nữ nào có tên và đặc điểm mô tả như lời khai của bị cáo nên Cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Về việc xử lý vật chứng: Đối với 0,147 gam ma túy Heroine còn lại sau khi giám định, là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar, mặt trước màu trắng, mặt sau màu đen, có số IMEI: 352242026462202 (khi máy bật nguồn), cũ đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Massgo, mặt trước màu trắng, mặt sau dán băng dính đen, có số IMEI: 351660076739396 đã qua sử dụng do không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

Đi với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA màu đỏ đen BKS 12D1-234.70 bị cáo sử dụng để đi mua ma túy, Cơ quan điều tra đã xác định chủ sở hữu của chiếc xe là anh Hứa Văn Đ. Việc bị cáo mượn xe mô tô của mình để đi mua ma túy, anh Đ không biết. Ngày 11/3/2019, anh Hứa Văn Đ đã nộp đơn xin lại chiếc xe trên. Ngày 02/5/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc ra Quyết định xử lý vật chứng số 116 và trả lại chiếc xe cho chủ sở hữu là anh Hứa Văn Đ theo quy định của pháp luật, do đó Hội đồng xét xử chỉ cần xác nhận.

[12] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ khoản 2 Điều 136; Điều 331; 332; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Đặng Văn T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 05/3/2019).

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

- Xác nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã trả cho anh Hứa Văn Đ 01(Một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA màu đỏ đen, đã qua sử dụng mang biển kiểm soát 12D1-234.70.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong dán kín của Công an huyện Cao Lộc ghi “VẬT CHỨNG THU GIỮ KHI BẮT QUẢ TANG ĐẶNG VĂN T NGÀY 05/3/2019” (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh Hà, trợ lý giám định và hình dấu của phòng Kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới, bên trong có 0,147 gam Heroine.

- Trả lại cho bị cáo Đặng Văn T 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar, mặt trước màu trắng, mặt sau màu đen, có số IMEI: 352242026462202 (khi máy bật nguồn), cũ đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Massgo, mặt trước màu trắng, mặt sau dán băng dính đen, có số IMEI: 351660076739396 đã qua sử dụng.

(Hin vật chứng trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/6/2019).

4. Về án phí: Bị cáo Đặng Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2019/HS-ST ngày 15/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:57/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về