TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỂU CẦN, TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 57/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Tiểu Cần xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 422/2019/TLST-HNGĐ, ngày 08/10/2019, về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 18/11/2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị K, sinh năm 1983, có đơn yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt;
Cư trú tại: Ấp N, xã M, huyện T, tỉnh Trà Vinh.
2. Bị đơn: Anh Lê Văn V, sinh năm 1985, có đơn yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt;
Cư trú tại: Ấp N, xã M, huyện T, tỉnh Trà Vinh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 02/10/2019, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Phạm Thị K trình bày:
Vào năm 2003, chị K có xác lập quan hệ hôn nhân với anh Lê Văn V, không có đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống, vợ chồng chị có 02 con chung tên Lê Thị Tiền Q, sinh ngày 14/11/2012 và Lê Kim S, sinh ngày 01/11/2005. Hiện các con chung đang sống chung với anh V. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
Nguyên nhân mâu thuẫn: Trong thời gian chung sống, giữa chị và anh V phát sinh nhiều mâu thuẫn, anh V có mối quan hệ với người phụ nữ khác. Tình cảm vợ chồng đã không còn nếu tiếp tục chung sống sẽ không có hạnh phúc.
Nay chị Phạm Thị K yêu cầu được ly hôn với anh Lê Văn V.
Về con chung: Chị Phạm Thị K đồng ý cho anh Lê Văn V được tiếp tục nuôi dưỡng các con chung tên Lê Thị Tiền Q, sinh ngày 14/11/2012 và Lê Kim S, sinh ngày 01/11/2005. Chị K không phải cấp dưỡng nuôi các con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu xem xét, giải quyết. chị.
Nguyên đơn chị Phạm Thị K có đơn yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Lê Văn V trình bày:
Anh Lê Văn V thống nhất với chị Phạm Thị K về thời gian xác lập quan hệ hôn nhân, không có đăng ký kết hôn, về con chung, về tài sản chung, nợ chung như chị K trình bày.
Nguyên nhân mâu thuẫn: Thời gian đầu vợ chồng chung sống cũng hạnh phúc. Sau đó phát sinh nhiều mâu thuẫn vì tính tình vợ chồng không hợp, vợ chồng anh đã sống ly thân từ tháng 02/2019 cho đến nay. Anh Lê Văn V đồng ý ly hôn với chị Phạm Thị K.
Về con chung: Anh Lê Văn V yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng các con chung tên Lê Thị Tiền Q, sinh ngày 14/11/2012 và Lê Kim S, sinh ngày 01/11/2005, anh V không yêu cầu chị K phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu xem xét, giải quyết.
Anh Lê Văn V yêu cầu Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt anh.
Con chung Lê Thị Tiền Q, Lê Kim S cùng có ý kiến trình bày: Các em là con chung của ông Lê Văn V và bà Phạm Thị K. Nếu cha mẹ ly hôn thì các em có nguyện vọng được sống chung với cha là ông Lê Văn V.
Những vấn đề các bên đƣơng sự thống nhất:
Về hôn nhân: Chị Phạm Thị K và anh Lê Văn V thuận tình ly hôn.
Về con chung: Chị Phạm Thị K đồng ý cho anh Lê Văn V được tiếp tục nuôi dưỡng các con chung tên Lê Thị Tiền Q, sinh ngày 14/11/2012 và Lê Kim S, sinh ngày 01/11/2005. Chị Phạm Thị K, không phải cấp dưỡng nuôi các con chung do anh Lê Văn V không có yêu cầu.
Về tài sản chung, nợ chung: Chị Phạm Thị K và anh Lê Văn V thống nhất không có và không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Những vấn đề các bên đƣơng sự không thống nhất: Không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án của Tòa án: Quan hệ tranh chấp trong vụ án là“Tranh chấp ly hôn, nuôi con”. Bị đơn anh Lê Văn V cư trú tại ấp N, xã M, huyện T, tỉnh Trà Vinh nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tiểu Cần.
[2] Về thủ tục tố tụng: Chị Phạm Thị K, anh Lê Văn V vắng mặt nhưng có đơn yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vắng mặt chị K, anh V.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị K và anh Lê Văn V sống chung với nhau vào năm 2003, không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Xét thấy hôn nhân của anh chị là không hợp pháp, trái với quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Trong thời sống chung anh chị có những mâu thuẫn không thể điều hoà được dẫn đến việc chị K cương quyết xin ly hôn với anh Lê Văn V. Chị K và anh V đều xác định tình cảm vợ chồng không còn và thống nhất ly hôn. Xét thấy, chị K và anh V xác lập quan hệ hôn nhân không có đăng ký kết hôn là không đúng theo quy định nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 53 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Phạm Thị K và anh Lê Văn V.
[4] Về con chung: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Phạm Thị K cho anh Lê Văn V được tiếp tục nuôi dưỡng các con chung tên Lê Thị Tiền Q, sinh ngày 14/11/2012 và Lê Kim S, sinh ngày 01/11/2005 là phù hợp với nguyện vọng của các con chung muốn sống chung với anh Lê Văn V. Chị Phạm Thị K không phải cấp dưỡng nuôi các con chung do anh Lê Văn V không có yêu cầu.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Phạm Thị K và anh Lê Văn V thống nhất không có nên không xem xét, giải quyết.
[6] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 228, 273, 280 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 53, Điều 81, 82, 83 và điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Phạm Thị K và anh Lê Văn V.
2. Về con chung: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Phạm Thị K cho anh Lê Văn V được tiếp tục nuôi dưỡng các con chung tên Lê Thị Tiền Q, sinh ngày 14/11/2012 và Lê Kim S, sinh ngày 01/11/2005 là phù hợp với nguyện vọng của các con chung muốn sống chung với anh Lê Văn V. Chị Phạm Thị K không phải cấp dưỡng nuôi các con chung do anh Lê Văn V không có yêu cầu.
Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Phạm Thị K và anh Lê Văn V thống nhất không có nên không xem xét, giải quyết.
4. Về án phí: Chị Phạm Thị K phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0004392, ngày 08/10/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiểu Cần, chị Phạm Thị K đã nộp đủ án phí. Anh Lê Văn V không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị K, anh Lê Văn V vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết công khai nơi cư trú để xin Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử lại theo trình tự phúc thẩm./.
Bản án 57/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 57/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiểu Cần - Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về