Bản án 57/2018/HSST ngày 17/09/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 57/2018/HSST NGÀY 17/09/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 17 tháng 9 năm 2018, Tại trụ sở Tòa án Nhân dân huyện Đông Hưng, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 58/2018/ HSST ngày 31/8/2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2018/ QĐ ngày 05/9/2018 đối với:

 Bị cáo : Vũ Minh C, sinh ngày 21/9/1993.

Nơi sinh, nơi cư trú: Thôn V Th, xã A D, huyện Q P, tỉnh T B.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Bố đẻ: Vũ Đình Đ; Mẹ đẻ: Trần Thị Ph; Vợ: Vũ Thị Thanh H, sinh năm 1996, hiện là sinh viên trường Đại học Công Đoàn; Có
01 con sinh năm 2016 hiện ở với ông bà nội.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị caó đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 29/06/2018, chuyển tạm giam từ ngày 05/7/2018, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đông Hưng, được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan :

- Anh Mai Văn H, sinh năm 1989 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Đ L, xã Đ L, huyện Đ H, tỉnh T B.

- Ông Vũ Đình Đ, sinh năm 1972 (Có mặt)

Địa chỉ: Thôn V Th, xã A D, huyện Q P, tỉnh T B.

Người chứng kiến:

- Anh Bùi Bá S, sinh năm 1970
- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1973
Đều ở địa chỉ: Thôn C D, xã ĐL, huyện Đ H, tỉnh T B. (Đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến vụ án tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 29/6/2018, tại khu vực cạnh đường quốc lộ 10, thuộc địa phận thôn C D 1, xã Đ L, huyện Đ H, tỉnh T B. Công an huyện Đông Hưng phối hợp với Công an xã Đông La bắt quả tang Vũ Minh C đang có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Mai Văn H.

Vật chứng thu giữ: Thu tại túi quần đùi hậu bên phải đang mặc của Mai Văn H 01 vỏ bao thuốc lá Vinataba bên trong có 01 gói được gói bằng giấy tráng kim màu vàng có kích thước (0,5x1)cm, mở ra bên trong có chất bột màu trắng dạng cục, H khai là ma túy vừa mua của Vũ Minh C với giá 300.000 đồng; Thu giữ tại tay trái của Vũ Minh C số tiền 300.000 đồng gồm 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng và 02 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng là tiền Mai Văn H vừa mua ma túy của Vũ Minh C. Quản lý của C 01 xe mô tô nhãn hiệu Dream biển kiểm soát 50R2-7452, 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu xanh đã cũ.

Quá trình điều tra Vũ Minh C khai nhận: Bản thân là người sử dụng ma túy từ đầu năm 2018. Khoảng 09 giờ ngày 29/6/2018, C đang ở nhà do có nhu cầu sử dụng ma túy nhưng không có điện thoại để liên lạc mua ma túy, nên Công điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Dream biển kiểm soát 50R2 - 7452 (xe C mượn của bố đẻ) từ nhà sang nhà anh Hòa Quang H, sinh năm 1993 ở thôn BM, xã A D, huyện Q P, T B (là bạn) với mục đích mượn điện thoại của H để liên lạc mua ma túy. Khi đến thì thấy H đang ngủ nên C ngồi chơi nói chuyện với ông Hòa Quang K là bố đẻ của H và lấy lý do hỏi mượn ông K chiếc điện thoại di động Nokia màu xanh đã cũ do có chút việc, ông K đồng ý (chiếc điện thoại này là của ông K, ông K để ở nhà, H và ông K đều sử dụng). Sau khi mượn được điện thoại của ông K, C điều khiển xe mô tô ra quốc lộ 10 đến khu vực ngã tư Vũ Hạ với mục đích hỏi xem có ai biết số điện thoại của người bán ma túy để xin số điện thoại liên lạc mua ma túy. C điều khiển xe môtô đi được một lúc thì thấy có số điện thoại 01299.112.839 gọi điện vào số 01234.766.831 mà C vừa mượn của ông K, C nghe điện thoại thì người gọi hỏi “H à”, C nói “không phải”, sau đó người này giới thiệu với C tên là T ở huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng và là bạn của H. Qua nói chuyện C biết người tên T cũng là người sử dụng ma túy nên cả hai cùng rủ nhau đi mua ma túy về sử dụng và hẹn nhau ở khu vực ngã ba đèn xanh đèn đỏ thuộc địa phận thị trấn Đông Hưng, huyện Đông Hưng, Thái Bình để đi mua ma túy. Khi gặp nhau người đàn ông tên T hỏi C có bao nhiêu tiền, C nói có 100.000 đồng và đưa cho T 100.000 đồng. T bảo C chở T đến khu vực gần Ủy ban nhân dân xã Đông Xuân, Đông Hưng, Thái Bình, khi đến nơi T bảo C đứng ngoài còn T đi bộ vào ngõ nhỏ gần đó mua ma túy. Sau khi mua được ma túy cả hai đi mua 02 bơm kim tiêm và 01 ống novocain sau đó điều khiển xe về góc sân vận động xã Đông Hợp. T lấy gói ma túy được bỏ trong vỏ bao thuốc lá vinataba vừa mua lấy ra một ít ma túy cho vào bơm kim tiêm cùng với novocain, T, C sử dụng bằng hình thức chích, số ma túy còn lại T gói lại và bỏ vào bao thuốc lá Vinata ba bỏ vào túi quần. Sau khi sử dụng ma túy xong, C và T về khu vực ngã ba thị trấn Đông Hưng uống nước. Trong lúc ngồi uống nước, T nói với C “Tý có thằng em lấy hàng (C hiểu là lấy ma túy) thì mày mang ra cho nó và lấy hộ tao 300.000 đồng về tao cho mày 100.000 đồng”, C đồng ý đồng thời T cầm vỏ bao thuốc lá Vinataba bên trong có chứa ma túy cài vào giá xe mô tô phía trước của C. Sau khi T nhờ C bán ma túy thì Mai Văn H là đối tượng sử dụng ma túy dùng điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar có số sim 01688.245.516 gọi cho C (H khai đã xin số điện thoại này thông qua những người sử dụng ma túy từ trước còn người bán ma túy tên là gì H không biết) hỏi mua 01 gói ma túy, C đồng ý và bảo hết 300.000 đồng, H hẹn C đến chân cầu Nguyễn trước cửa khu vực sinh thái Hà Thành thuộc địa phận thôn C D 1, Đ L, Đông Hưng, Thái Bình để mua bán ma túy. Sau khi liên lạc với C, H đi bộ từ nhà ở ra khu vực trước cửa khu sinh thái Hà Thành còn C điều khiển xe mô tô từ thị trấn Đông Hưng đến. Khi C điều khiển xe gần đến nơi thì H gọi điện thoại cho C, C nhìn thấy H nên điều khiển đến chỗ H, khi gặp nhau do đã giao dịch từ trước H lấy 300.000 đồng gồm 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng và 02 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng đưa cho C, C nhận tiền và lấy 01 vỏ bao thuốc lá Vinataba ở giá để xe phía trước đưa cho H, H cầm bao thuốc lá Vinataba bỏ vào túi quần đùi hậu bên phải đang mặc thì bị Công an huyện Đông Hưng bắt quả tang. Công an huyện Đông Hưng đã mời người chứng kiến, kiểm tra người Mai Văn H, Vũ Minh C. Sau đó, Công an huyện Đông Hưng đã đưa C, H về trụ sở Ủy ban nhân dân xã Đông La lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và dẫn giải về trụ sở Công an huyện Đông Hưng để làm việc.

Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Vũ Minh C không quản lý thu giữ gì.

Tại bản kết luận giám định số 284/KLGĐ - PC54 ngày 29/06/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu gửi giám định thu của Mai Văn H là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,0249 gam (không phẩy không nghìn hai trăm bốn mươi chín gam)”.

Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo; Cáo trạng số 61/CT- VKSĐH ngày 30/8/2018 đã truy tố, hành vi của bị cáo Vũ Minh C đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Trong phần tranh luận tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng giữ quyền công tố tại phiên tòa phân tích nguyên nhân điều kiện phạm tội, đánh giá chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm, hậu quả, nhân thân của bị cáo, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trên cơ sở đó giữ nguyên quan điểm truy tố theo Cáo trạng số 61/CT- VKSĐH ngày 30/8/2018 đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo C về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” Đồng thời áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS tuyên phạt bị cáo C tõ 02(hai) năm - 02(hai) năm 03(ba) tháng tù áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo C từ 5.000.000 – 7.000.000 đồng và đề nghị xử lý vật chứng.

Tại phiên tòa bị cáo C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình thể như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 29/6/2018, tại khu vực cạnh đường quốc lộ 10 thuộc địa phận thôn Cổ Dũng 1, xã Đông La, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, Vũ Minh C đã có hành vi bán trái phép 0,0249 gam ma túy loại hê rô in cho Mai Văn H bị Công an huyện Đông Hưng bắt quả tang. Bị cáo Công xác định cáo trạng truy tố bị cáo về hành vi mua bán ma túy là đúng pháp luật vì vậy không trình bày lời bào chữa, cũng không trình bày ý kiến tranh luận về tội danh, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, điều luật áp dụng, mức hình phạt do Kiểm sát viên đề nghị.

Kết thúc phần tranh luận tại phiên tòa bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, ăn năn hối hận về việc làm của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình bị cáo do vợ bị cáo hiện nay đang học đại học năm cuối, con bị cáo còn quá nhỏ mới hai tuổi phải gửi ông bà nội, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo và xin được miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi quyết định tố tụng: Các tài liệu chứng chứng cứ do Điều tra viên, Kiểm sát viên thu thập trong quá trình điều tra vụ án thì thấy đã tuân thủ các quy định của pháp luật. Đó là các tài liệu hợp pháp chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo. Căn cứ vào các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đúng như lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và hoàn toàn phù hợp với cáo trạng số 61/CT - VKSĐH ngày 30/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng đã truy tố.

Lời khai nhận tội của bị cáo còn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 29/6/2018; Kết luận giám định số 284/KLGĐ-PC54 ngày 29/6/2018, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Mai Văn H, ông Vũ Đình Đ, ông Hòa Quang K; Lời khai của những người chứng kiến, ông Bùi Bá S, ông Nguyễn Văn T cùng toàn bộ tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở kết luận khoảng 11 giờ ngày 29/6/2018 Vũ Minh C đã có hành vi bán trái phép 0,0249 gam ma túy loại hê rô in cho Mai Văn H. Hành vi nêu trên của Vũ Minh C đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy

1.Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[3] Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự an ninh, an toàn xã hội bị cáo đã biết tác hại của ma túy, biết việc mua bán ma túy là bất hợp pháp nhưng vẫn mua bán trái phép chất ma túy để có tiền và có ma túy sử dụng. Vì vậy việc đưa vụ án ra xét xử và áp dụng mét møc ¸n tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng răn đe giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Bị cáo là người có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[ 5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo bán ma túy với mục đích vụ lợi do vậy cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Tuy nhiên do hoàn cảnh bị cáo khó khăn con còn nhỏ, vợ đang học đại học, bị cáo là lao động duy nhất trong gia đình, nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định mức hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[ 6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy loại hê rô in thu giữ của H là chất Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Số tiền 300.000đ cơ quan điều tra thu giữ của C là tiền do bị cáo bán ma túy cho H mà có do vậy cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

- 01 chiếc điện thoại Nokia màu xanh cũ quản lý của Vũ Minh C, qua điều tra xác minh là của ông Hòa Quang K, Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông K là đúng thẩm quyền.

- 01 xe mô tô biển kiểm soát 50R2-7452 là xe C mượn của ông Vũ Đình Đ (là bố đẻ) dùng làm phương tiện để bán ma túy, khi C mượn xe không nói với ông Đ đi đâu làm gì, ông Đ khai chiếc xe này ông mua ở miền Nam, có giấy đăng ký xe mang tên Nguyễn Văn Diện, sinh năm 1974 ở Hồ Văn Huế, phường 9, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh, khi mua do xe cũ nên không làm giấy tờ mua bán. Cơ quan điều tra tiến hành tra cứu chiếc xe không có trong cơ sở dữ liệu xe vật chứng. Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng tiếp tục quản lý để xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

- Về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Vũ Minh C ngày 29/6/2018, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng thẩm quyền.

- Đối với Mai Văn H do H chưa có tiền án, tiền sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc một trong các tội quy định tại điều 248, 250, 251 và 252 Bộ luật hình sự; tàng trữ khối lượng ma túy chưa đến mức khởi tố đối với Mai Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Mai Văn H là đúng thẩm quyền.

- Về nguồn gốc số ma túy thu giữ C khai bán hộ người tên là Tuấn ở huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, Tuấn là người có số điện thoại 01299.112.839. Qua tra cứu số điện thoại 01299.112.839 có chủ thuê bao là Nguyễn Minh Tiến sinh năm 1987 trú tại phường Quang Trung, thành phố Thái Bình. Tiến khai trước đây có sử dụng số điện thoại này, nhưng sau không dùng nữa, hiện tại ai dùng Tiến không biết nên không có căn cứ xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo Vũ Minh C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Minh C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” .

2. Về hình phạt và điều luật áp dụng: Áp dụng khoản 1, 5 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Vũ Minh C 02(hai ) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 29/6/2018. Hình phạt bổ sung: Phạt tiền đối với Vũ Minh C 5.000.000 đồng sung quỹ nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu, tiêu hủy 0,0145 (không phảy không một bốn lăm) gam hê rôin được niêm phong trong phong bì do phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình hoàn trả mẫu vật giám định; Có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Đông Hưng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hưng ngày 30/8/2018. Sung quỹ nhà nước số tiền 300.000đ cơ quan điều tra thu giữ của C.

4.Về án phí và quyền kháng cáo:

Áp dụng Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Vũ Minh C phải chịu 200.000 đồng án phí  hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án ngày 17/9/2018. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2018/HSST ngày 17/09/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:57/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về