Bản án 57/2018/HS-ST ngày 02/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 57/2018/HS-ST NGÀY 02/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 58/2018/TLST- HS ngày 10 tháng 7 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 142/2018/QĐXXST-HS, ngày 19/7/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Quàng Văn D - Sinh năm: 1983. Tại: Huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.

Nơi cư trú: Bản N, xã H, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp:Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Khơ Mú; Con ông: Quàng Văn S và bà Quàng Thị M; bị cáo có vợ và 04 con.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/4/2018 đến nay; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ ngày 21/4/2018 tại bản Tà Cọ, xã Sốp Cộp, huyện Sốp Cộp tổ công tác công an huyện Sốp Cộp phát hiện và bắt quả tang Quàng Văn D đang có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ trong lòng bàn tay phải của Quàng Văn D 01 gói nilon màu hồng bên trong có chứa bột màu trắng (nghi là heroine). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và dẫn giải Quàng Văn D về Công an huyện Sốp Cộp để điều tra theo quy định của pháp luật

Ngày 23/4/2018 tại Phòng PC54 Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành cân tịnh, lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng thu giữ của Quàng Văn D. Kết quả cân tịnh bột màu trắng trong gói nilon màu hồng có khối lượng 0,4281 gam, trích lấy 0,1808 gam ký hiệu D1 làm mẫu giám định, số còn lại 0,2473 gam, ký hiệu D2 là vật chứng lưu kho.

Kết luận giám định số: 532/KLMT ngày 26/4/2018 của Phòng KTHS - Công an tỉnh Sơn La, kết luận: Mẫu gửi giám định có ký hiệu D1 là chất ma túy; Loại Heroine; Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,1808 gam. Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ là 0,4281 gam; Loại Heroine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Quàng Văn D khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 21/4/2018 do nghiện chất ma túy nên một mình D đi bộ từ nhà tại bản N, xã H, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La đến bản Co Mạ B, xã Huổi Một, huyện Sông Mã mục đích tìm xin ma túy của những người nghiện ma túy để sử dụng. Khi đến bản Co Mạ B thì D gặp một người đàn ông dân tộc Thái không quen biết đang sử dụng ma túy bên lề đường, thấy vậy, D lại gần làm quen và xin ma túy để sử dụng. Người đàn ông đó đồng ý và lấy một ít heroine cho D sử dụng, sử dụng ma túy xong người đàn ông đó rủ D đến bản Tà Cọ, xã Sốp Cộp, huyện Sốp Cộp để bốc gỗ thuê, D đồng ý đi cùng. Người đàn ông đó đưa cho D 01 gói ma túy được gói bằng gói nilon màu hồng và nói với D là heroine bảo D cầm hộ rồi sẽ cùng nhau sử dụng, D đồng ý cầm lấy gói ma túy rồi ngồi sau xe máy người đàn ông đó đi đến bản Tà Cọ, xã Sốp Cộp, huyện Sốp Cộp. Khi đi đến bản Tà Cọ thì người đàn ông đó dừng xe và bảo D xuống xe đợi người đàn ông đi tìm nước sạch để chích heroine, khi D đang đứng ở ven đường đợi người đàn ông đó thì bị tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp đến kiểm tra phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng nêu trên.

Cáo trạng số 49/CT – VKS, ngày 09 tháng 7 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp để xét xử bị cáo Quàng Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà sau khi trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo: Quàng Văn D từ 14 đến 18 tháng tù. Đồng thời đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, xử lý vật chứng theo quy định, bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo D nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với cộng đồng trở thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Quàng Văn D khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo đã trực tiếp tàng trữ 0,4281 gam Heroine với mục đích để sử dụng, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Trong vụ án này số lượng ma túy bị cáo tàng trữ là không lớn; ngoài mục đích sử dụng ra bị cáo không còn mục đích nào khác do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tố bị cáo về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt tù từ 01 đến 05 năm tù là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, trực tiêp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Số lượng ma túy bị cáo tàng trữ tuy không lớn, nhưng nếu không được ngăn chặn kịp thời chất độc hại này sẽ được đưa vào cơ thể con người làm suy thoái giống loài, nếu để lây lan, trôi nổi trong xã hội làm cho tệ nạn ma túy tại địa phương ngày càng phức tạp. Do đó bị cáo cần phải bị trừng trị thích đáng nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

 [4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

 [5] Xét về nhân thân của bị cáo: Bị cáo là người có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự phạm tội lần đầu, theo báo cáo của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú thì bị cáo đang nằm trong diện theo dõi quản lý. Do đó để trừng trị đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, cũng như công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới đảm bảo cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

 [6] Đối với người đã trực tiếp đưa ma túy cho bị cáo cầm HĐXX xét thấy hành vi đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải bị xử lý hình sự, nhưng quá trình điều tra không xác định được đối tượng do đó không có căn cứ để điều tra xử lý ở vụ án này, đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý ở vụ án khác.

 [7] Vật chứng thu giữ của vụ án: Đối với 0,2473 gam Heroine còn lại sau khi đã trưng cầu giám định là vật nhà nước cấm tàng trữ, 01 vỏ nilon màu hồng, 01 vỏ phong bì thư niêm phong ban đầu là vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy.

 [8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy lẽ ra ngoài hình phạt tù, bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; nhưng xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, tài sản không có gì nên không áp dụng hình pháp bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo: Quàng Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo: Quàng Văn D 16 (Mười sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 21/4/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3 Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Tịch thu tiêu hủy gam 0,2473 gam Heroine ký hiệu D2, 01 vỏ nilon màu hồng, 01 vỏ phong bì thư niêm phong ban đầu. Vật chứng nêu trên được mô tả theo biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 13/7/2018 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sốp Cộp và Công an huyện Sốp Cộp

Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016, buộc bị cáo Quàng Văn D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng)

Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 02/8/2018.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2018/HS-ST ngày 02/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:57/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về