Bản án 567/2019/HS-PT ngày 25/11/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 567/2019/HS-PT NGÀY 25/11/2019 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 25 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số:474/HSPT ngày 28 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo Giáp Minh Tdo có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 176/2019/HSST ngày 17/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Giáp Minh T (K), sinh năm 1994 tại Kiên Giang; giới tính: nam; nơi đăng ký thường trú: Tổ 11, Khu phố Đông Hưng, thị trấn Tân Hiệp, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: không: trình độ học vấn: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; con ông: Giáp Đình T và bà Nguyễn Thị T; bị cáo có vợ và 02 con (01 con sinh năm 2015, 01 con sinh năm 2019 (cung cấp giấy chứng sinh); tiền án, tiền sự: không Bị bắt, tạm giam từ ngày 21/5/2019 Bị cáo có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 11/12/2017, ông Châu Tâm N phát hiện xe mô tô biển số 69 N1 – 345.35 (số khung RLCUG0610 GY 313223, số máy G3D4E- 329029) của Giáp Minh T để trước dãy phòng trọ số 26B3, Khu phố 3, phường An Phú, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương bị mất trộm, nhờ sự hỗ trọ của “Đội hiệp sĩ Bình Dương” và qua định vị xe, Giáp Minh T phát hiện xe mô tô của mình đang ở địa chỉ số D16/26/4 ấp 4B xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh nên đến Công an xã Vĩnh Lộc B trình bào. Công an xã Vĩnh Lộc B tiếp nhận tố giác và tiến hành xác minh, kiểm tra căn nhà nói trên (do Giáp Minh T thuê ở) thì phát hiện tại đây có 01 xe môt tô không biển số, có số khung – số máy trùng khớp với xe mô tô của Giáp Minh T và 01 xe mô tô không biển số, 04 biển số xe gồm: 74F1- 150, 60F2-119.90, 86B5-187.13, 67G1-241.44 cùng một số xe mô tô khác nên tiến hành lập hồ sơ ban đầu rồi chuyển đến Công an huyện Bình Chánh xử lý.

Kết luận giám định số 741/HĐGĐ-TTHS-TCKH ngày 11/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Chánh xác định xe mô tô có số khung RLCUG0610FY-087251, số máy G3D4FE- 098608 trị giá 36.00.000 đồng; xe mô tô có số khung RLCUG0610GY313223, số máy G3D4E-329029 trị giá 43.200.000 đồng.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Giáp Minh T khai nhận bản thân có thực hiện việc mua bán xe không rõ nguồn gốc từ tháng 4/2017, khoảng 03 giờ ngày 11/12/2017, trong lúc đang ở nhà trọ ở địa chỉ số D16/26/4 ấp 4 B xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Giáp Minh T lên mạng xã hội facebook và thông qua phần mềm messenger mua 01 xe mô tô biển số 86B5- 187.13 (Số khung RLCUG0610FY-087251, số máy G3D4E-09808) của đối tượng Thành Liên (Chưa rõ lai lịch) với giá 17.000.000 đồng. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, cũng tại nhà trọ của mình, Giáp Minh T tiếp tục liên hệ và thông qua phần mềm messenger mua 01 xe mô tô biển số 67G1-241.44 (Số khung RLCUG0610GY313223, sô số máy G3D4E-329029) của đối tượng tên Thành Liên với giá 17.000.000 đồng. Sau đó, Giáp Minh T và Thanh L giao xe – nhận tiền tại ngã tư Nguyễn Thị Tú – Quốc Lộ 1A. Khi mua xe, Giáp Minh T biết rõ đây là xe mô tô do trộm cắp mà vì có giá bán rẻ hơn rất nhiều so với giá trị thật của xe, xe không giấy đăng ký và “Thành Liên” còn đưa thêm cho Giáp Minh T 02 biển số xe rời là 74F1- 150.20 và 60F2-119.90 để thay đổi (khi bán xe cho khách) để tránh bị phát hiện. Sau khi mua xe, đem về phòng trọ, khi Giáp Minh T vừa tháo 02 biển số đang gắn trên xe ra và chưa kịp thay biển số thì lực lượng công an kiểm tra, phát hiện như trên. Lời khai của Giáp Minh T phù hợp với vật chứng thu giữ được, kết quả kiểm tra tin nhắn messenger trên điện thoại di động hiệu Oppo thu của Giáp Minh T.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 176/2019/HSST ngày 17/9/2019 của Tòa án Giáp Minh T dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Xử phạt bị cáo Giáp Minh T01 (một) năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009. Thời hạn tù tính từ ngày 21/5/2019.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

2 Tại phiên tòa, bị cáo cung cấp Giấy chứng sinh của con bị cáo mới sinh và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Đại diện viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: sau khi phân tích tính chất của vụ án, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm trách nhiệm hình sự đối với bị cáo cho rằng mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Vào ngày 11/12/2017 bị cáo đã thực hiện hành vi mua 01 chiếc xe mô tô không biển số có số khung RLCUG0610FY-087251, số máy G3D4E-09808 và 01 xe mô tô không biển số có số khung RLCUG0610GY313223, số máy G3D4E-329029,bị cáo biết rõ xe này là do phạm tội mà có. Hành vi của bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” qui định tại khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung 2009 là đúng người, đúng tội không oan sai.

Bị cáo kháng cáo, đơn kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định là hợp lệ. Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:

Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung 2009 và từ đó áp dụng mức hình phạt 01 năm tù là có căn cứ pháp luật. Tuy nhiên, tại phiên tòa, bị cáo nêu yêu cầu kháng cáo: phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính, có con nhỏ, hiện có 01 con vừa mới sinh (cung cấp giấy chứng sinh) nên Hội đồng xét thấy cần giảm thêm cho bị cáo một phần hình phạt để tạo điều kiện cho bị cáo chăm sóc con nhỏ. Xét thời hạn tạm giam đã đủ để giáo dục, răn đe bi cáo nên chấp nhận kháng cáo của bị cáo, xử bị cáo bằng thời hạn tạm giam.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điểm b Khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Giáp Minh T, sửa bản án sơ thẩm.

- Căn cứ khoản 1 Điều 250; điểm g khoản 1 Điều 48, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; Điều 3 328 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Xử phạt: Giáp Minh T 06 (sáu) tháng 04 (bốn) ngày tù tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/5/2019, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù. Trả tự do ngay cho bị cáo tại phiên tòa nếu bị cáo không bị giam về một tội phạm khác.

Bị cáo không phải nộp phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 567/2019/HS-PT ngày 25/11/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:567/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về