Bản án 562/2018/HSPT ngày 22/08/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 562/2018/HSPT NGÀY 22/08/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 212/2018/TLPT-HS ngày 15 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo Nguyễn Thị T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 422/2017/HSST ngày 28/12/2017 của Toà án nhân dân thành phố H.

* Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Thị T, sinh năm 1991; nơi ĐKNKTT: Thôn B, xã T, thị xã T, tỉnh N; chỗ ở: Thôn C, xã N, huyện D, tỉnh N; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: lớp 9/12; con ông Nguyễn Văn K và bà Hoàng Thị T; có chồng là Trần Văn D và có 2 con (con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2017); tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/12/2016 đến ngày 28/12/2016; bị cáo tại ngoại; có mặt.

* Luật sư do Tòa án chỉ định bào chữa cho bị cáo: Lut sư Hoàng Ngọc Thanh B – Văn phòng luật sư Kết Nối thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có 02 bị cáo khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 18 giờ 00 phút ngày 19/12/2016 tại cửa nhà số 189 đường N, phường Đức G, Công an quận L kiểm tra, bắt giữ Lê Thị Ngọc C, Nguyễn Thị T về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, thu giữ của C 01 (một) hộp giấy, bên trong có 01 (một) túi nylon màu trắng chứa 150 viên nén hình tròn màu nâu hồng in logo ‘Chanel’. Công an quận L đã đưa C và T về trụ sở Công an quận L làm việc. C khai cùng Nguyễn Thị T đi giao ma túy cho người phụ nữ tên N, nguồn gốc số ma túy là của X.

Ngoài ra, còn thu giữ của C 01 điện thoại di động hiệu NOMI; thu giữ của Nguyễn Thị T 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu vàng.

Cùng ngày cơ quan điều tra - Công an quận L đã bắt khẩn cấp đối với Nguyễn Hữu X, thu giữ của X 01 điện thoại di động hiệu LG.

Km xét nơi ở của Nguyễn Thị T tại thôn C, xã N, huyện D, tỉnh N thu giữ: 01 túi nylon chứa 260 viên nén màu nâu hồng, 01 túi nylon chứa 10 viên nén màu nâu hồng, 01 coóng thủy tinh tự tạo, 01 túi nylon chứa tinh thể màu trắng.

Km xét nơi ở của Lê Thị Ngọc C tại tổ 8, phường Phúc Đ, quận L và Nguyễn Hữu X tại khu Suối H, phường Vũ N, thành phố N, kết quả: không thu giữ gì.

Kết luận giám định số 290/KLGĐ-PC54 ngày 13/01/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận về số tang vật thu giữ của Lê Thị Ngọc C: 150 viên nén hình tròn màu nâu hồng có in logo của hãng Chanel đều là ma túy loại Kentamine, tổng trọng lượng: 41,393gam.

Kết luận giám định số 510/KLGĐ-PC54 ngày 19/01/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận về số tang vật thu giữ của Nguyễn Thị T:

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon không tìm thấy thành phần chất ma túy, trọng lượng: 23,610gam.

- 260 viên nén màu nâu hồng đều là ma túy loại Kentamine, tổng trọng lượng: 70,900gam.

-10 viên nén màu nâu hồng đều là ma túy loại Kentamine, tổng trọng lượng: 2,480gam.

- 01 cóong thủy tinh có dính ma túy loại Methamphetamine. Quá trình điều tra xác định được như sau:

Nguyễn Hữu X, Nguyễn Thị T, Lê Thị Ngọc C, Phạm Văn K quen biết nhau qua quan hệ xã hội. Khoảng 20 giờ ngày 26/11/2016, Phạm Văn K, sinh năm 1988, trú tại Niêm X, Kinh B, tỉnh N nhặt được ở ven đường cao tốc Hà Nội, Bắc Ninh gần cầu Bồ Sơn, phường Bồ Sơn, thành phố Bắc Ninh 01 túi nylon màu đen bên trong có khoảng 500 viên nén màu nâu hồng in logo Chanel. K nghĩ là ma túy nhặt mang về nhà, K lấy một viên dùng thử thấy không có cảm giác “bay” nên không dùng nữa. Tối ngày 18/12/2016, Nguyễn Hữu X đến chơi nhà K, K đã cho X số ma túy trên, K nói “ma túy đểu dùng không lên”; sau đó, X mang ma túy giấu ở ven đường gần nhà K tại phường Kinh Bắc, thành phố Bắc Ninh. Đến khoảng 23h ngày 18/12/2016, Nguyễn Thị T rủ X đến chơi và gặp Lê Thị Ngọc C (bạn của T); X nói có khoảng 500 viên nén ma túy kém chất lượng cần bán, giá 100.000đ - 150.000đ/viên; C nói để C liên lạc với chị N ở L; N đồng ý mua và yêu cầu xem mẫu ma túy nên C bảo X đi lấy ma túy. Khoảng 23 giờ ngày 18/12/2016, X đi taxi đến gần nhà K lấy ma túy đã cất giấu, đến khoảng 02 giờ sáng ngày 19/12/2016 X mang số ma tuý về phòng trọ của T và lấy 01 (một) túi nylon chứa viên nén ma túy đổ ra mâm, X, T cùng đếm và X bỏ đi khoảng 50 viên bị vỡ, số còn lại X, T cho vào túi nylon.

Sau đó C, X, T đi taxi đến khu vực cổng bệnh viện Đức Giang để giao mẫu ma túy cho N, T và X xuống xe còn C lấy túi nylon chứa 03 viên ma túy đi taxi mang giao cho N ở gần nhà N rồi C đi taxi quay lại đón T, X cùng về phòng trọ của T; đến nơi, X về nhà còn T, C đi ngủ. Khoảng 12 giờ ngày 19/12/2016, X quay lại nhà T thì người phụ nữ tên N đặt mua 150 viên thuốc lắc hẹn giao hàng; đến 15 giờ cùng ngày, T đưa X cầm hộp giấy chứa 150 viên thuốc lắc, sau đó T, X, C cùng đi taxi về Hà Nội giao ma túy cho N; khi qua cầu Đuống, X đưa lại hộp giấy chứa ma túy cho C, đến trước cửa số nhà 189 Ngô Gia Tự, T, C bảo lái xe chở X đến khu vực cổng bệnh viện Đức Giang ngồi chờ còn T, C xuống xe đi giao ma túy thì bị Công an kiểm tra, bắt giữ.

Tại cơ quan điều tra, Lê Thị Ngọc C, Nguyễn Thị T, Nguyễn Hữu X khai nhận hành vi phạm tội và khai số ma túy Công an thu giữ khi khám xét nhà T là do X mang đến để bán.

Kết quả kiểm tra thông tin bản kê chi tiết các số điện thoại, tin nhắn thu giữ số: 0979106xxx của Lê Thị Ngọc C, 0982222xxx số máy của Nguyễn Thị T, 0973555xxx của Nguyễn Hữu X và số máy 0925777xxx của đối tượng N thể hiện:

+ Tin nhắn từ số máy 0925777xxx của N đến số máy 0979106xxx của Lê Thị Ngọc C có 10 tin nhắn nội dung liên quan đến việc trao đổi mua bán ma túy giữa C và N trong ngày 18,19/12/2016.

+ Từ 01 giờ 20 phút đến 16 giờ 12 phút số máy 0973555xxx của Nguyễn Hữu X liên lạc với số máy 0982222893 của Nguyễn Thị T là 03 cuộc.

+ Từ 17 giờ 55 phút đến 18 giờ ngày 19/12/2016 số máy 0982222xxx của Nguyễn Thị T liên lạc với số máy 0925777xxx số máy của đối tượng N là 02 cuộc.

Về đối tượng N dùng số máy 0925777xxx gọi điện và nhắn tin với Lê Thị Ngọc C về việc mua bán trái phép chất ma túy do C khai không rõ tên tuổi, địa chỉ, xác minh các số điện thoại là thuê bao trả trước, chưa đăng ký thông tin chủ thuê bao nên không có căn cứ xác minh điều tra làm rõ.

Về đối tượng Phạm Minh K tài liệu điều tra xác định Phạm Minh K là người đã cho Nguyễn Hữu X những viên nén ma túy tổng hợp. Ngày 22/8/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Hà Nội đã ra Quyết định khởi tố bị can đối với Phạm Minh K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xét thấy, Phạm Minh K khi nhặt được túi nylon đựng ma túy, sau đó đã cho Phạm Hữu X, chưa xác định được ý thức chủ quan của K có biết là ma túy hay không. Ngày 02/10/2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội ra Quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can đối với Phạm Minh K và Cơ quan điều tra đã ra quyết định tách rút tài liệu đối với Phạm Minh K để điều tra làm rõ xử lý sau.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 422/2017/HSST ngày 28/12/2017 của Tòa án nhân dân thành phố H đã quyết định:

Áp dụng điểm e khoản 3 Điều 194; điểm l, p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T 15 (Mười lăm) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời điểm chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với bị cáo khác trong vụ án; về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 11/01/2018 bị cáo Nguyễn Thị T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Nguyễn Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai nhận hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xem xét xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, sau khi nêu tóm tắt nội dung vụ án đồng thời phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị T; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử: Tòa án cấp sơ thẩm đã xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm e khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không đưa ra được căn cứ để xin giảm nhẹ hình phạt; Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ xử bị cáo với mức án 15 năm tù là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bác kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T, giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị T: Hành vi phạm tội của Nguyễn Thị T bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng quy định của pháp luật. Về hình phạt đối với bị cáo có phần nghiêm khắc; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo: Trong vụ án bị cáo T tham gia với vai trò đồng phạm giản đơn, bị cáo có vai trò thấp hơn các bị cáo khác; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo đang nuôi con nhỏ; bị cáo thật thà khai báo; Cơ quan điều tra đã thu giữ được toàn bộ tang vật vụ án nên chưa có hậu quả xảy ra. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 54; Điều 58 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Thị T khai nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã quy kết; xét lời khai của bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của các bị cáo khác trong vụ án; phù hợp biên bản phạm tội quả tang và các tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận: Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung được quy định tại điểm e khoản 3 Điều 194 của Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội và Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố và xét xử bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật và không oan.

[2]. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị T là đặc biệt nghiêm trọng; xâm phạm đến quyền quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy; tệ nạn ma túy là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác trong xã hội, mặc dù nhận thức rõ tác hại và hậu quả khôn lường của việc mua bán, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép các chất ma túy là Nhà nước nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn phạm tội là coi thường pháp luật. Do vậy, cần phải áp dụng hình phạt thật nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hậu quả, hành vi của bị cáo là cần thiết.

[3]. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, cũng như trọng lượng ma túy bị cáo mua bán xử phạt bị cáo với mức án 15 năm tù là đúng quy định của pháp luật. Bị cáo kháng cáo nhưng không đưa ra được căn cứ xin giảm nhẹ hình phạt, nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cũng như lời đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo, cần giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

[4]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T; giữ nguyên các quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 422/2017/HSST ngày 28/12/2017 của Tòa án nhân dân thành phố H, quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm e khoản 3 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị T 15 (Mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, trừ cho bị cáo thời gian đã tạm giam từ ngày 19/12/2016 đến ngày 28/12/2016.

Bị cáo Nguyễn Thị T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hiệu kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 562/2018/HSPT ngày 22/08/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:562/2018/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về