TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 56/2021/HS-ST NGÀY 19/04/2021 VỀ TỘI VI PHAM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 19 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 266/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2020 và Thông báo mở lại phiên tòa số 05/TB-TA ngày 12/4/2021 đối với bị cáo:
Đỗ Ngọc M, sinh năm 1971; nơi sinh: B; HKTT: Ấp T, xã B, huyện X, tỉnh B; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Ngọc C và bà Lê Thị K; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 19/11/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 09 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại Bản án hình sự số 34/2020/HS-ST; hiện bị cáo Đỗ Ngọc M đang chấp hành án theo Quyết định thi hành án hình phạt tù số 40/2020/QĐ-CA ngày 21/12/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân; có mặt Bị hại: Anh Phạm Văn T, sinh năm 2002; địa chỉ: Ấp M, xã M, huyện U, tỉnh K (đã chết).
Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Phạm Văn T, sinh năm 1974, bà Dư Thị L, sinh năm 1979; cùng địa chỉ: Ấp M, xã M, huyện U, tỉnh K (cha mẹ của anh Phạm Văn T); có mặt Người làm chứng: Ông Nguyễn Quốc T; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Đỗ Ngọc M có Giấy phép lái xe ô tô số 790157208974 hạng C do Sở giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí M cấp ngày 14/12/2015 có thời hạn đến ngày 14/12/2020.
Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 16/7/2019, M điều khiển xe ô tô tải biển số 51T-1157 lưu thông trên đường T theo hướng từ chợ T về hướng cầu K. Khi đi đến đoạn giao nhau với đường Tân Phước Khánh 30 và Tân Phước Khánh 28 thuộc khu phố Khánh Lộc, phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, M điều khiển xe rẽ trái để vào đường Tân Phước Khánh 30. Cùng lúc này xe mô tô biển số 68L1-060.86 do anh Phạm Văn T điều khiển chạy hướng từ cầu Khánh Vân về hướng chợ Tân Phước Khánh ngược chiều với xe tải do M điều khiển đã không kịp phản xạ nên hai xe va chạm nhau, cánh cửa trước bên phải xe ô tô do M điều khiển va chạm vào tay cầm bên phải xe mô tô do T điều khiển. Hậu quả tai nạn làm anh T tử vong tại hiện trường.
Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định: Hiện trường vụ tai nạn xảy ra tại ngã tư giao nhau giữa đường Tô Vĩnh Diện với đường Tân Phước Khánh 30, đường Tân Phước Khánh 28 thuộc khu phố Khánh Lộc, phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Đoạn đường xảy ra tai nạn là đoạn đường dốc, mặt đường rộng 7m, giữa mặt đường có vạch sơn chia mặt đường thành hai chiều bằng nhau mỗi bên rộng 3,5m, mặt đường Tân Phước Khánh 30 và Tân Phước Khánh 28 đều rộng 4,5m, hai bên đường có nhà dân và cây xanh nhưng không che khuất tầm nhìn của người điều khiển phương tiện. Hiện trường có một vết phanh của xe mô tô do anh T điều khiển dài 7m, theo hướng di chuyển của anh T thì điểm đầu vết phanh cách mép đường là 1m, điểm cuối vết phanh cách mép đường 0,9m. Xe mô tô 68L1-060.86 sau tai nạn đầu xe hướng đường Tân Phước Khánh 30, đuôi xe hướng cầu Khánh Vân, trục bánh trước xe mô tô cách mép đường theo hướng di chuyển của anh T là 2,2m, trục sau cách mép đường 2,8m, cách điểm cuối vết phanh là 5,2m. Sau tai nạn, người anh T nằm ngửa trên mặt đường, vuông góc với đường Tô Vĩnh Diện, đầu hướng đường Tân Phước Khánh 28 cách mép đường 3,7m, chân hướng đường Tân Phước Khánh 30, tay phải cách trục sau xe mô tô 0,6m. Đầu xe ô tô 54T-1157 hướng đường Tân Phước Khánh 30, đuôi xe hướng gần vuông góc đường Tô Vĩnh Diện. Trục bánh trước bên phải cách mép đường theo hướng di chuyển của xe mô tô là 1,3m, trục bánh sau bên phải cách mép đường 1,3m, cách trục trước xe mô tô là 3,1m, cách đầu anh T là 3,8m.
Kết luận giám định pháp y tử thi số 549/GĐPY ngày 18/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận nguyên nhân chết của nạn nhân Phạm Văn T do đa chấn thương, chấn thương sọ não.
Quá trình điều tra, cơ quan điều tra tạm giữ đồ vật, tài liệu gồm: Xe mô tô biển số 68L1-060.86, Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 68L1- 060.86, xe ô tô biển số 51T-1157, Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển số 51T-1157, giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô biển số 51T-1157. Xe mô tô biển số 68L1-060.86 do ông Phạm Văn T (bố anh T) đứng tên đăng ký sở hữu, quá trình điều tra xác định anh Phạm Văn T tự ý lấy xe 51T-1157 sử dụng, ông T không biết, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã giao trả lại xe này cùng Giấy chứng nhận đăng ký cho ông T. Xe ô tô biển số 51T-1157 thuộc quyền sở hữu của bị cáo Đỗ Ngọc M, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại xe ô tô biển số 51T-1157 cùng Giấy chứng nhận đăng ký, Giấy chứng nhận kiểm định xe cho bị cáo M.
Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị cáo Đỗ Ngọc M đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 65.000.000 đồng. Ông Phạm Văn T và bà Dư Thị L (Bố, mẹ anh T) đã làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Đỗ Ngọc M.
Cáo trạng số 02/CT-VKS.TU ngày 08/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo Đỗ Ngọc M về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 56 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 08 tháng tù và tổng hợp với hình phạt 09 tháng tù tại Bản án 34/2020/HS-ST ngày 19/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu để buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố, không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, tỏ thái độ ăn năn, hối hận và mong muốn được hưởng sự khoan hồng của pháp luật; người đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố.
[2] Về các yếu tố cấu thành tội phạm: Tại phiên tòa bị cáo xác định khi điều khiển xe tô tô rẽ trái từ đường Tô Vĩnh Diện để vào đường Tân Phước Khánh 30 có giảm tốc độ và bật đèn xi nhan xin đường, tuy nhiên do thiếu quan sát không thấy người bị hại đang chạy ngược chiều với tốc độ nhanh nên gây tai nạn. Xét thấy lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp Biên bản khám nghiệm hiện trường và các tình tiết khách quan của vụ án. Do đó có đủ cơ sở xác định: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 16/7/2019, bị cáo Đỗ Ngọc M điều khiển xe ô tô tải biển số 51T-1157 chuyển hướng nhưng không nhường đường cho xe đi ngược chiều là nguyên nhân gây ra tai nạn, hậu quả làm 01 người chết. Hành vi của bị cáo đã vi phạm khoản 2 Điều 15 Luật giao thông đường bộ. Theo quy định tại khoản 2 Điều 15 Luật giao thông đường bộ thì khi chuyển hướng xe bị cáo phải nhường đường cho phương tiện đi ngược chiều và chỉ được phép chuyển hướng khi quan sát không gây trở ngại hoặc nguy hiểm cho người và phương tiện khác. Thời điểm xảy ra tai nạn, bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm Luật giao thông đường bộ, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm an toàn, trật tự công cộng. Do đó có đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố cũng như luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại, quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, gia đình bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt, bị hại cũng có một phần lỗi dẫn đến tai nạn khi chưa được cấp giấy phép lái xe mô tô theo quy định, chạy xe với tốc độ cao nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
[4] Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo có nhân thân không tốt, quá trình điều tra bị cáo được cho tại ngoại, sau đó bỏ trốn, tiếp tục có hành vi phạm tội và bị kết án.
[5] Về mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo: Quá trình điều tra bị không những bỏ trốn gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố mà còn tiếp tục có hành vi phạm tội mới. Cho thấy thái độ của bị cáo là coi thường pháp luật, cần phải có mức hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng một thời gian nhất định đủ để răn đe, giáo dục và phòng ngừa xã hội chung. Xét thấy mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo trên cơ sở đã cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Bị cáo đang phải chấp hành hình phạt 09 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại Bản án hình sự số 34/2020/HS-ST ngày 19/11/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu. Cần tổng hợp để buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung theo quy định.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị hại không yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi thường, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng đúng quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Đỗ Ngọc M phạm tội “Vi pham quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
1. Về trách nhiệm hình sự:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51;
khoản 1 Điều 56; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Đỗ Ngọc M 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 09 (Chín) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại Bản án hình sự số 34/2020/HS-ST ngày 19/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.
Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 29/8/2020.
2. Về án phí sơ thẩm:
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Buộc bị cáo Đỗ Ngọc M phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 56/2021/HS-ST ngày 19/04/2021 về tội vi pham quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 56/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về